Part 8: Memorandum of Conversation1 Saigon, December 19, 1972.
Part 9 Memorandum of Conversation Saigon, December 19, 1972 (Continued)
October 24–December 13, 1972 413
should consider the fact that if there were such an admission and then some NVA forces remained, the legitimacy of their presence is acknowledged. There is nothing in the agreement now which establishes Hanoi’s right to have forces in the South. 2) There is no chance of getting international supervision of military assistance to North Vietnam. We are handling this problem in two ways. First, we have made a unilateral statement, which we will reiterate, (begin text) “in implementing the provisions of Article 7, the United States will take into account the need for replacement produced by the introduction of military equipment into those parts of Indochina not covered by that Article. ” (End text) Thus Hanoi knows, and the GVN should be reassured, that if military aid to the DRV threatens to upset the balance, we will compensate in our own aid to the GVN. In any event, the GVN, particularly after our massive resupply program, is in excellent shape vis a` vis the DRV, in quality as well as quantity. Secondly, as I informed Thieu, we are working hard with Moscow and Peking on this question and they both know we expect them to limit their shipments under ceasefire conditions. 3) While it will not be possible to change the name of the council4in English, we will, as already promised, change the Vietnamese translation of the phrase “administrative structure. ” We will also try to further dilute the functions of what is already not a governmental body, as Xuan Thuy himself has pointed out. We will try to delete “maintenance of the ceasefire” and replace “organize” with “have the specific task of organizing” the election. These changes, if we can get them, would underline what is already clear, i. e. that the council is a facilitative and intermediary body, not a governmental body. 4) As a further concession to the GVN we will try to eliminate the sentence concerning councils at lower levels, but this change is likely to prove unobtainable. In any event, as you pointed out, there is no obligation to set up such councils; the only obligation is to consult about the subject. With further reference to Articles 9(f) and (g) you should reassure the GVN that we will stand fast on not accepting the time limits that Lam raised per your paragraph 12 in reftel. 55) We will try to get the word “national” substituted for “general” with regard to elections, but we don’t believe this is either attainable or important. We still don’t believe that the Vietnamese implies elections for a constituent assembly. Furthermore, the record is clear on this
414 Foreign Relations, 1969–1976, Volume IX
point and you should point out that Xuan Thuy himself stated in an AFP interview on November 10 that the question concerning the nature of the elections “had not yet been settled: this question will be discussed by the two parties during the period which will follow the ceasefire. The two parties will together discuss the nature of the election. ”6) We cannot change the composition of ICCS. Our position remains as expressed in the President’s letter, and in any event we note that this is a relatively small point for the GVN. 7) You should as diplomatically as possible point out that it is just too late to consider including the GVN in our discussions with Le Duc Tho. However, we reaffirm our intention to consult daily with Ambassador Lam, and you should point out that we are seeking to engage the GVN in four party and two party negotiations in Paris concerning the protocols on the ICCS and the military commissions. 3. Points of clarification and modification. 1) We will try to move Chapter I to after Chapter III to reduce its prominence, but doubt we will be successful. 62) As Haig and you have explained, we wish to insert “unconditional” to prevent the ceasefire being linked to other provisions, e. g. political conditions, and thus give a pretext for the war to start again if other aspects of the agreement run into difficulties. We consider this very important for our domestic opinion and would think the GVN would find it advantageous as well. Thus, unless we hear strong views to the contrary, we plan to seek this change. 3) We agree that reference to Article 9(i) is unnecessary and will refer to Article 9(b) only. 4) We thought our change would be helpful but we will defer to the GVN and keep the earlier version of Article 7, paragraph 2. 5) We were planning to substitute the word equality if we are successful in dropping the reference to three equal segments. Deletion of the latter will be one of our most difficult tasks, and if we are unsuccessful, we will not seek the addition of “equality.” The phrase “representing all political tendencies” corresponds to the approach of the January 25 joint plan and indeed we envisage that there would be some neutral elements appointed by both sides, though the three segment aspect would be fuzzed if we are successful in getting our language. The GVN; however, should be under no illusion that we are likely to be successful; if we fail, we will press for the sentence “each GVN party will
October 24–December 13, 1972 415
appoint half the membership of the Council” in order to give the GVN sufficient control over the third segment. As for deleting the first “national” in the council’s title, we consider this strictly marginal and do not plan to press for it. 6) The GVN should again be reminded that Article 9(g) says that the task of the Council is “promoting” various functions assigned to the two South Vietnamese parties. To make this even clearer, we will try to have the sentence lead off by saying that “the Council shall have the task of promoting the following:” Also as indicated above, we will try to delete “maintenance of the ceasefire” and give the Council “the specific task of organizing” the election. Thus, except for the elections, the Council only promotes functions which continue to remain with the South Vietnamese parties. 7) Our proposed addition of Quote within three months of the signing of this agreement End quote was designed to accommodate the GVN by giving some time frame for the demobilization provision. We believe this is an important and helpful proposal, but if the GVN prefers, we will not seek this addition. 8) We will try for this additional change in Article 10, but it is highly doubtful that we can get it. 79) You should remind the GVN that the North Vietnamese only dropped India on the condition that we would drop Japan. We will of course nominate only Japan and not India, but in view of the record we expect to be faced with the choice of getting both countries or neither country. We still prefer having both countries at the conference, but the GVN comments imply that they prefer having neither. Thus you should get definitive GVN views on this choice. 10) Thieu’s letter8 accepted our proposal Quote The Indochinese states End quote. He said that it should be understood to mean the four Indochinese states. The GVN of course is free to interpret it in this way, so their position is protected with our formulation, but the DRV will not accept Quote four End quote in the text. 11) We will try to make Articles 16 and 17 a separate agreement. 912) As indicated above, we will stand fast on keeping time limits out of Articles 9(f) and 9(g). 416 Foreign Relations, 1969–1976, Volume IX4. We still await the GVN views on our proposed addition of the following sentence in Article 9(f): Quote until the completion of the political process provided for in Article 9(b), the existing authorities shall continue to exercise present internal and external functions. End quote. We still think this has the virtue of further underlining the fact that the Council is not governmental. Unless the GVN objects to this suggestion, we plan to go ahead with it. 5. I wish to underline again the necessity of having the GVN’s final positions on each of the above questions by opening of business November 18 our time.
Không ai có thể đoán trước những diễn biến có thể xãy ra, nhưng nếu đúc kết toàn sự kiện là bối cảnh thì có thể hình dung được một tương lai là hậu quả. Tình thế chính trị VNCH có vẻ là không thuận lợi, trong toàn văn kiện Hiệp Ðịnh Paris 1973 không có bất cứ điều nào nói về phản ứng của bốn bȇn trước các vi phạm, nếu có, trong khi Hiệp Ðịnh Paris 1973 có hiệu lực. Tất cả những cam kết về sự trả đủa chỉ có trȇn thư riȇng và những trao đổi không công khai giữa những nhà chính trị của chính quyền của Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon. Giữa khi ước lượng khoảng 150.000 đến 300.000 quân Bắc Việt đã đột nhập Nam Việt Nam hoặc trȇn Lào và Kampuchia và đang ém quân thì tình thế quân sự Nam Việt Nam như ngàn cân treo trȇn sợi tóc. Miền Nam Việt Nam xem là đã mất vào tay cộng sản Bắc Việt gần như vì những lý do ngoài chính trị, nhưng thực tế này, chưa ai biết được vào thời điểm năm 1973 đó. CSBV tin chắc rằng họ sẽ chiến thắng và sáp nhập (annex) Miền Nam Việt Nam vào Bắc Việt, nȇn sự kiȇu ngạo này dẫn đến ván bài quyết liệt nhất trước khi ký kết Hiệp Ðịnh Paris 1973.
Trong những bài tới, chúng ta sẽ đi qua những tài liệu chính trị và quân sự cực kỳ căng thẳng trước khi Hiệp Ðịnh Paris 1973 được ký kết. Cũng qua các tài liệu này, chúng ta nhận ra được những suy nghĩ của TT Richard Nixon và các nhân vật thân cận, nhất là Cố vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, Tướng Haig, Bộ Trưởng Quốc Phòng Laird, Ðại Sứ Bunker và TT Nguyễn Văn Thiệu. Giữa khi tình thế chính trị và quân sự xen kẻ, đan quyện vào nhau, nhưng chúng ta chưa thấy dấu hiệu nào QLVNCH nhận biết tình hình đất nước lâm nguy. Chúng ta sẽ duyệt lại những đối thoại giữa Lȇ Ðức Thọ với Kissinger trong những bài tới. Hiệp Ðịnh Paris 1973 cũng cho chúng ta biết rằng nước cờ của Hoa Kỳ đều được sự “cảm nhận” của Sô Viết và Trung Cộng và Trung Cộng đã chọn thời điểm Hoa Kỳ rút quân để đánh chiếm Hoàng Sa ngày 19/01/1974 khi tình thế VNCH cực kỳ bối rối trước thù trong giặc ngoài và người bạn Hoa Kỳ “khăn gói” ra đi. Thật thương xót cho VNCH!
Với kiến thức thật nhỏ mọn, Hoàng Hoa sẽ cố gắng lưu lại những bài trích dịch sang Việt ngữ từ nguyȇn bản Anh ngữ của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong hai tập sách Những Quan Hệ Ngoại Giao của Hoa Kỳ từ 1969-1976. Kính mong quý độc giả chú ý theo dõi. Nếu quý vị có câu hỏi về các ý nghĩa hoặc thắc mắc về từ ngữ trong các bài dịch này về email của tôi. Tôi sẽ tìm hiểu để trả lời.
Kính
Hoàng Hoa
Bản dịch Việt ngữ Hoàng Hoa (June 2, 2020)
VNR Vietnam Review
110. Thông điệp Backchannel từ Trợ lý của Tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia (Kissinger) đến Đại sứ tại Việt Nam (Bunker) Washington, 17/11/1972
Cảm ơn ông đã điện tín liên quan đến những thay đổi trong thỏa thuận. Sau đây là những nhận xét của chúng ta về các đề nghị của GVN, được nhập vào các đoạn trong tin nhắn của Ông. Ông nên lập tức gặp ngay GVN để đưa trả lời của chúng ta. Ông nên làm rõ hoàn toàn rằng những nỗ lực bổ sung chúng ta sẽ thực hiện là sự cố gắng hết sức của chúng ta. Ông nên nhắc nhở họ rằng những thay đổi mà chúng ta đã đưa cho họ đã vượt quá những gì chúng ta mong đợi một cách thực tiển để có được và do đó, việc bổ sung thêm vẫn có thể làm quá tải các hoạt động (overload the circuit) hơn nữa. Chúng ta rõ ràng sẽ nỗ lực tối đa ở Paris nhưng GVN không nên ảo tưởng rằng có thể có được số lượng lớn các thay đổi mà chúng ta sẽ tìm kiếm. Với những cảnh báo này, Ông nên tìm kiếm các vị trí cuối cùng của GVN về bất kỳ câu hỏi nào còn nổi bật trong các nhận xét của chúng ta dưới đây, đồng thời làm rõ rằng không có sự nhượng bộ nào trong các vị trí của chúng ta ở bất cứ nơi nào chúng ta nói chúng ta không thể chấp nhận đề nghị của họ. Chúng ta phải kết thúc quá trình này trước giờ mở cửa làm việc vào Thứ Bảy, ngày 18 tháng 11. Phạm vi làm việc cho cách tiếp cận của Ông ấy vẫn là quyết tâm của Tổng thống để tiến hành như được nêu trong bức thư của Ông ta, và quan điểm mạnh mẽ của ông ấy là những thay đổi trong thỏa thuận mà chúng ta đang thảo luận là không đáng kể so với tầm quan trọng của sự thống nhất giữa hai nước chúng ta, cảnh giác đối với việc áp dụng thỏa thuận và nhu cầu duy trì sự hỗ trợ của công chúng Hoa Kỳ cho các chính sách của chúng ta. 2. Những điểm bất đồng. 1) Chúng ta tin rằng cố gắng dùng từ diễn đạt chi tiết cụ thể hơn là “trả họ trở về nhà của họ” là hoàn toàn không thực tế. Chúng ta sẽ không thể khiến DRV thừa nhận chính thức nó có lực lượng ở miền Nam. Hơn nữa,
Ngày 24 tháng 10 ngày 13 tháng 12 năm 1972 413
nên xem xét thực tế rằng nếu đã có một sự thừa nhận như vậy và rồi một số lực lượng NVA vẫn còn, tính hợp pháp của sự hiện diện của họ được thừa nhận. Hiện tại không có gì trong thỏa thuận xác lập quyền của Hà Nội được phép có lực lượng ở miền Nam. 2) Không có cơ hội nhận được sự giám sát quốc tế về sự hỗ trợ quân sự cho Bắc Việt Nam. Chúng ta đang hành xử vấn đề này theo hai cách. Đầu tiên, chúng ta đã đưa ra một tuyên bố đơn phương, mà chúng ta sẽ nhắc lại, “khi thực hiện các quy định tại Điều 7, Hoa Kỳ sẽ chú ý đến nhu cầu thay thế được tạo ra bằng cách đưa thiết bị quân sự vào các khu vực của Đông Dương không được bao gồm bởi Điều đó.” Như thế Hà Nội biết, và GVN nên yên tâm, rằng nếu viện trợ quân sự cho DRV có nguy cơ làm đảo lộn sự cân bằng, chúng ta sẽ đền bù trong viện trợ của chúng ta cho GVN. Trong mọi trường hợp, GVN, đặc biệt là sau chương trình tái tiếp tế lớn của chúng ta, là một đối đầu tuyệt vời với DRV, về chất lượng cũng như số lượng. Thứ hai, như tôi đã thông báo cho Thiệu, chúng ta đang làm việc chăm chỉ với Moscow và Bắc Kinh về vấn đề này và cả hai đều biết chúng ta hy vọng họ sẽ hạn chế các chuyến hàng của họ trong điều kiện ngừng bắn. 3) Mặc dù không thể thay đổi tên của tiếng Anh của hội đồng, nhưng chúng ta sẽ, như đã hứa, sẽ thay đổi bản dịch tiếng Việt của cụm từ “cấu trúc hành chính.” Chúng ta cũng sẽ cố gắng làm loãng thêm các chức năng của những gì đã không phải là một cơ quan chính phủ, như chính Xuân Thúy đã chỉ ra. Chúng ta sẽ cố gắng xóa bỏ “việc bảo trì lệnh ngừng bắn” và thay thế “tổ chức” bằng “có nhiệm vụ đặc biệt tổ chức” bầu cử. Những thay đổi này, nếu chúng ta có thể có được chúng, sẽ nhấn mạnh những gì đã rõ ràng, tức là hội đồng là một cơ quan trung gian và thuận lợi, không phải là một cơ quan chính phủ. 4) Như một sự nhượng bộ hơn nữa đối với GVN, chúng ta sẽ cố gắng loại bỏ câu liên quan đến các hội đồng ở cấp thấp hơn, nhưng sự thay đổi này có vẻ chứng minh là không thể đạt được. Trong mọi trường hợp, như Ông đã chỉ ra, không bắt buộc phải thành lập các hội đồng như vậy; điều bắt buộc duy nhất là tham khảo ý kiến về chủ đề này. Với sự tham khảo thêm về Điều 9(f) và (g), Ông nên trấn an GVN rằng chúng ta sẽ giữ vững không chấp nhận giới hạn thời gian mà Lam nêu ra trong đoạn 12 của Ông trong bức điện tín (reftel, reference telegraph). 55) Chúng ta sẽ cố gắng để có được từ “quốc gia” thay thế cho “tổng quát” liên quan đến bầu cử, nhưng chúng ta không tin rằng điều này có thể đạt được hoặc quan trọng. Chúng ta vẫn không tin rằng người Việt Nam ngụ ý những cuộc bầu cử cho một hội đồng cấu thành. Hơn thế, bản ghi thì rỏ ràng về điểm này
414 Quan hệ đối ngoại, 1969- 1976, Tập IX
và Ông nên chỉ ra rằng chính Xuân Thủy đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn của AFP vào ngày 10 tháng 11 rằng vấn đề liên quan đến bản chất của cuộc bầu cử “vẫn chưa được giải quyết: vấn đề này sẽ được hai bên thảo luận trong giai đoạn tiếp theo cuộc ngừng bắn. Hai bên sẽ cùng nhau thảo luận về bản chất của cuộc bầu cử.” 6) Chúng ta không thể thay đổi thành phần của ICCS. Vị trí của chúng ta vẫn được thể hiện như trong thư của Tổng thống và trong mọi trường hợp chúng ta lưu ý rằng đây là một điểm tương đối nhỏ đối với Chính phủ Việt Nam. 7) Ông nên ngoại giao hết mức có thể để nȇu ra rằng chỉ là quá muộn để xem xét bao gồm cả GVN trong các cuộc thảo luận của chúng ta với Lê Đức Thọ. Tuy nhiên, chúng ta tái khẳng định ý định tham khảo ý kiến hàng ngày với Đại sứ Lam, và Ông nên chỉ ra rằng chúng ta đang tìm cách tham gia GVN trong bốn cuộc đàm phán của hai bên và hai bên ở Paris liên quan đến các biȇn bản ngoại giao về ICCS và các ủy ban quân sự. 3. Những điểm làm rõ và sửa đổi. 1) Chúng ta sẽ cố gắng chuyển Chương I sang sau Chương III để giảm bớt sự nổi bật của nó, nhưng nghi ngờ chúng ta sẽ thành công. 62) Như Haig và Ông đã giải thích, chúng ta muốn chèn vào “không điều kiện” để ngăn chặn lệnh ngừng bắn được liên kết với các điều khoản khác, ví dụ như các điều kiện chính trị, và do đó đưa ra một cái cớ để chiến tranh bắt đầu lại nếu các khía cạnh khác của thỏa thuận gặp khó khăn. Chúng ta coi điều này rất quan trọng đối với quan điểm trong nước của chúng ta và sẽ nghĩ rằng GVN cũng sẽ thấy nó có lợi thế. Vì vậy, trừ khi chúng ta nghe thấy quan điểm mạnh mẽ ngược lại, chúng ta sẽ dự định tìm kiếm sự thay đổi này. 3) Chúng ta đồng ý rằng tham chiếu đến Điều 9(i) là không cần thiết và sẽ chỉ đề cập đến Điều 9(b) thôi. 4) Chúng ta nghĩ rằng sự thay đổi của chúng ta sẽ hữu ích nhưng chúng ta sẽ trì hoãn GVN và giữ phiên bản trước đó của Điều 7, đoạn 2. 5) Chúng ta dự định thay thế từ bình đẳng nếu chúng ta thành công trong việc bỏ tham chiếu ba thành phần bằng nhau. Xóa bỏ cái sau sẽ là một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất của chúng ta và nếu chúng ta không thành công, chúng ta sẽ không tìm kiếm sự bổ sung của từ “bình đẳng.” Cụm từ “đại diện cho tất cả các khuynh hướng chính trị” tương ứng cho sự tiến đến kế hoạch phối hợp ngày 25 tháng 1 và thực ra chúng ta hình dung rằng sễ có một số phần tử trung lập được hai bȇn chỉ định tuy khía cạnh ba thành phần sẽ lõng lẽo. Chính phủ Việt Nam; tuy nhiên, không nên ảo tưởng rằng chúng ta có khả năng thành công; nếu chúng ta thất bại, chúng ta sẽ ép vào câu “mỗi bȇn Chính phủ Việt Nam sẽ
Ngày 24 tháng 10 - 13 tháng 12 năm 1972 415
chỉ định một nửa số thành viên của Hội đồng” để cung cấp cho GVN đủ quyền kiểm soát thành phần thứ ba. Đối với việc xóa từ “quốc gia” đầu tiên trong tiêu đề của hội đồng, chúng ta xem xét điều này một cách nghiêm ngặt kém ý nghĩa và không có kế hoạch nhấn mạnh cho nó. 6) GVN một lần nữa nên được nhắc nhở rằng Điều 9(g) nói rằng nhiệm vụ của Hội đồng là “đề cử” các chức năng khác nhau được giao cho hai bȇn miền Nam Việt Nam. Để làm cho điều này rõ ràng hơn nữa, chúng ta sẽ cố gắng loại bỏ câu bằng cách nói rằng “Hội đồng sẽ có nhiệm vụ đề cử những điều sau:” Cũng như đã nêu ở trên, chúng ta sẽ cố gắng xóa “duy trì Lệnh ngừng bắn” và cho Hội đồng “nhiệm vụ đặc biệt tổ chức” bầu cử. Do đó, ngoại trừ các cuộc bầu cử, Hội đồng chỉ thúc đẩy các chức năng tiếp tục tồn tại với các bȇn miền Nam. 7) Việc bổ sung “được đề nghị của chúng ta trong vòng ba tháng kể từ ngày ký thỏa thuận này.” được thiết kế để phù hợp với GVN bằng cách đưa ra một số khung thời gian cho điều khoản xuất ngũ. Chúng ta tin rằng đây là một đề nghị quan trọng và hữu ích, nhưng nếu GVN thích hơn, chúng ta sẽ không tìm kiếm sự bổ sung này. 8) Chúng ta sẽ cố gắng cho sự thay đổi bổ sung này trong Điều 10, nhưng rất đáng nghi ngờ là chúng ta có thể có được nó. 79) Ông nên nhắc nhở GVN rằng Bắc Việt chỉ bỏ Ấn Độ với điều kiện chúng ta sẽ bỏ Nhật Bản. Tất nhiên chúng ta sẽ chỉ đề cử Nhật Bản chứ không phải Ấn Độ, nhưng theo quan điểm của hồ sơ, chúng ta hy vọng sẽ phải đối mặt với sự lựa chọn nhận cả hai quốc gia hoặc không phải quốc gia nào. Chúng ta vẫn thích có cả hai quốc gia tại hội nghị, nhưng các ý kiến của GVN ngụ ý rằng họ thích không có. Do đó, Ông nên có được quan điểm của GVN dứt khoát về lựa chọn này. 10) Thư của Thiệu đã chấp nhận đề nghị của chúng ta “Các quốc gia Đông Dương.” Ông ta nói rằng nên được hiểu là bốn quốc gia Đông Dương. GVN tất nhiên được tự do diễn giải nó theo cách này, vì vậy vị trí của họ được bảo vệ với công thức của chúng ta, nhưng DRV sẽ không chấp nhận “bốn” trong văn bản. 11) Chúng ta sẽ cố gắng biến Điều 16 và 17 thành một thỏa thuận riêng. 912) Như đã chỉ ra ở trên, chúng ta sẽ giữ vững lập trường giữ những giới hạn thời gian cho Điều 9(f) và 9(g).
416 Quan hệ đối ngoại, 1969 -1976, Tập IX4.
Chúng ta vẫn đang chờ các quan điểm của GVN về đề nghị bổ sung câu sau đây trong Điều 9(f): “cho đến khi hoàn thành quá trình chính trị được quy định tại Điều 9(b), các cơ quan hiện có sẽ tiếp tục thực hiện các chức năng bên trong và bên ngoài.” Chúng ta vẫn nghĩ điều này có ưu điểm là nhấn mạnh thêm thực tế rằng Hội đồng không phải là chính phủ. Trừ khi các đối tượng GVN bác bỏ đề nghị này, chúng ta dự định đi tiếp tục với nó. 5. Tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa sự cần thiết phải có các vị trí cuối cùng của GVN cho từng mỗi vấn đề trên trước giờ làm việc ngày 18 tháng 11 thời gian của chúng ta.
1. GVN: (Government of Vietnam) Chính Phủ Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa)
2. ICCS: The International Commission of Control and Supervision (Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Thanh Tra)
3. DRV: The Democratic Republic of Vietnam (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa)
4. Xuân Thủy: Trưởng đoàn Ngoại Giao Bắc Việt (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) tại Hội đàm Paris 1973
5. Lȇ Ðức Thọ: Ðảng viȇn Ðảng Cộng Sản Việt Nam, có những họp công khai hay bí mật với Henry Kissinger về Hội nghị Paris 1973, Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon.