Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2020

THE DECISIVE BATTLES IN THE VIETNAM WAR. Chiến Dịch Hậu Vệ I (Linebacker I). In 1972, The U.S. Air Force Saved South Vietnam From Certain Defeat. Các hoạt động của Linebacker II.

 

Chiến Dịch Hậu Vệ I.

https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1969-76v08/d1 

Foreword: Trân trọng kính xin Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho Quan Ðiểm Việt Nam (VNR) được trích dịch đăng tải những bài viết về Cuộc Chiến trȇn lãnh thổ VNCH và trȇn không phận Bắc Việt Nam vào Mùa Hè 1972 trong tập Quan hệ đối ngoại của Hoa Kỳ, 1969–1976, Tập VIII, Việt Nam, tháng Giêng – tháng 10 năm 1972 cho mục đích nghiȇn cứu quân sự và văn hóa lịch sử.

Hoàng Hoa, EIC VNR. 2021/06/17

 

1. Thông điệp từ Tư lệnh, Bộ Chỉ huy Hỗ trợ Quân sự, Việt Nam (Abrams) gửi Tổng Tư lệnh Thái Bình Dương (McCain) 1

Sài Gòn, 20/01/1972, 0945Z.

76221. Dành riêng cho Adm McCain. Cung cấp trong giờ thức dậy. Tài liệu tham khảo: A. COMUSMACV 041237Z Tháng 1 72. B. COMUSMACV 070812Z Tháng 1 72. C.COMUSMACV 170425Z Tháng 1 72. 2

1.    (TS) Mục đích của thông điệp này là mô tả một cách rõ ràng nhất có thể cuộc tấn công của kẻ thù sắp xảy ra đối với VNCH; tác động của các hoạt động đang diễn ra đối với chiến dịch ngăn chặn Commando Hunt và các cơ quan chức năng bổ sung cần thiết để tiến hành một cuộc phòng thủ hiệu quả trong giai đoạn tới.

2.    (TS) Như đã chỉ ra trong phần đánh giá của tôi về tình hình đối phương được trình bày trong Đoạn A và B, cùng với những thông tin tình báo bổ sung trong đoạn 3

    [Trang 2]    bên dưới, kẻ thù đang chuẩn bị và bố trí lực lượng của mình cho một cuộc tấn công lớn. Rõ ràng là kẻ thù đã đưa ra các quyết định cấp cao và lập kế hoạch cho một nỗ lực như vậy. Mặc dù chúng ta không thể chắc chắn vào thời điểm này về kế hoạch tấn công chính xác của anh ta, nhưng rõ ràng là anh ta sẽ cố gắng đối mặt với chúng tôi trong những tình huống khó khăn nhất mà anh ta có thể thực hiện được.3 Không nghi ngờ gì nữa, đây là một chiến dịch lớn . Chúng tôi ước tính rằng nỗ lực chính sẽ chống lại mặt trận B3 ở Vùng 2 VNCH và phía Bắc Vùng 1 của VNCH, nhưng điều này sẽ đi kèm với sự gia tăng hoạt động chung của đối phương ở các khu vực khác của VNCH. Đối phương sẽ sử dụng MiG’s, SAM’s và AAA để làm phức tạp thêm các hoạt động của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng hoạt động MiG tăng cường gần đây của anh ta sẽ tiếp tục và sẽ chống lại các hoạt động không quân của chúng tôi. Anh ta dự kiến ​​sẽ bố trí SAM’s và AAA ngay phía bắc DMZ và đã chuyển những vũ khí này vào cán bộ Lào để chống lại các hoạt động của chúng tôi ở những khu vực này. Các biện pháp này sẽ đi kèm với các chiến dịch mặt đất hỗ trợ thiết giáp và pháo binh mà chúng ta phải có khả năng tập trung sức mạnh không quân của Hoa Kỳ và KQVN bất kể môi trường không quân thù địch. Chắc chắn kẻ thù sẽ tiếp tục các hoạt động ở Lào hoặc Campuchia nhằm vào các mục tiêu nhạy cảm với mục đích chuyển hướng sức mạnh không quân của Hoa Kỳ sang các khu vực có tầm quan trọng chiến lược thứ yếu. Chúng tôi sẽ cần phải có những quyết định chiến lược khó khăn để ngăn chặn sự phân mảnh của nỗ lực không quân của chúng tôi. Chúng tôi thấy trước một trận chiến khó khăn liên quan đến vũ khí tinh vi và sức mạnh chiến đấu trên bộ mà kẻ thù có thể tạo ra.

3.    (S) Kể từ khi gửi các đánh giá tình báo của chúng tôi về Đông Nam Á trong Tài liệu tham khảo A và B, kẻ thù đã tiếp tục cung cấp bằng chứng rõ ràng và tích cực về ý định của mình trong sáu tháng tiếp theo.

    A.        Tại NVN ngày 18 tháng 12 năm 1971, trong một bài phát biểu chính thức trước các cơ quan chức năng quân sự và dân sự cấp cao, Tướng Giáp nhấn mạnh rằng tất cả thanh niên đều phải chiến đấu. Chủ đề của bài diễn văn của tướng Giáp nhấn mạnh “chúng ta phải chiến đấu với quyết tâm giành chiến thắng”. Cơ quan chính thức của đảng Nhân Dân, đã thông báo rằng tất cả thanh niên phải đi nghĩa vụ quân sự để bảo vệ tổ quốc bất chấp những miễn trừ trong quá khứ. Ngoài ra, nhật báo Hà Nội

        [Trang 3]        đã công bố những bức ảnh chụp các chiến sĩ trong quân phục và trang bị chiến đấu với chú thích “Tiếp bước cha anh, các đơn vị lên đường vào Nam chiến đấu”.

    B.        Cuộc di chuyển về phía nam, hay sự chuẩn bị cho việc di chuyển, của các đơn vị chiến thuật chủ yếu vẫn tiếp tục. Bộ chỉ huy Sư đoàn 320 và ba trung đoàn của nó tiếp tục di chuyển về phía mặt trận B-3 của VC, với bộ chỉ huy Sư đoàn gần đây nhất nằm ở phía đông nam Sarvane. Bộ chỉ huy và một trung đoàn phụ của Sư đoàn 308 đã di chuyển quá 100 dậm về nam và tin tình báo cho biết rằng những đơn vị chủ lực chính của sư đòan này đang chuẩn bị bố trí. Sư đoàn 304 và hai trung đoàn của nó đã di dời đáng kể về phía nam với các đơn vị trinh sát của sư đoàn được báo cáo là đang hoạt động ở phía tây Khe Sanh. Thông tin tình báo đặc biệt tiết lộ rằng sở chỉ huy Sư đoàn và các thành phần trung đoàn của Sư đoàn 324B cũng đang chuẩn bị triển khai. Những chỉ số này cho thấy sự sẵn sàng của Hà Nội quyết định tung bốn trong năm sư đoàn dự bị được tổ chức tại NVN, một quyết định mà trước đây chỉ xảy ra trong Tết Mậu Thân 1968 và trong Lam Sơn 719 vào tháng Ba và tháng Tư năm 1971. Trung đoàn Độc lập 271, trước đây được sử dụng như một lực lượng ven biển đơn vị phòng thủ và biên phòng ở NVN cũng đang di chuyển xuống phía nam. Ngoài ra, pháo 122 MM và các loại pháo khác cũng được đưa vào mặt trận B-3. Tình báo cũng cho thấy mức độ thâm nhập rất cao của nhân sự và các đơn vị từ NVN vào VNCH và Campuchia, vượt xa so với cùng kỳ năm ngoái. Đặc biệt quan trọng là số lượng lớn các đơn vị có tổ chức di chuyển qua hệ thống xâm nhập. Địch cũng đã mở rộng và nâng cao khả năng phòng không của mình về phía nam. Hai vụ phóng tên lửa SA – 2 đã xảy ra từ các vị trí trong vùng lân cận Tchepone, và một vụ từ địa điểm cách 25 dậm xa hơn về phía nam trong vùng cán chảo. Đã có sự gia tăng khả năng nhìn thấy các thiết bị liên quan đến SAM (tên lửa, bệ phóng, radar và xe điều khiển hỏa lực) trong khu vực lân cận các cửa ra vào và dọc theo các LOC ở vùng cán chảo Lào. Ngoài ra, việc đánh chặn tín hiệu radar Fan Song ở khu vực lân cận Vĩnh Linh ngay phía bắc rìa phía đông của DMZ cho thấy khả năng SAM ở cực nam NVN. Gần đây, kẻ thù đã tăng khả năng phòng không thông thường của mình ở vùng cán chảo Lào lên 52 tiểu đoàn so với 44 trấn giữ ở đó vào cuối năm 1971. Việc kích hoạt chuỗi cảm biến trong vài tuần qua cho thấy kẻ thù đang đẩy nhanh chiến dịch hậu cần của mình ở cán bộ Lào. Trong tháng 12 năm 1971, số lần kích hoạt chuỗi cảm biến trung bình hàng tuần là khoảng 3.100. Mức trung bình hàng tuần trong hai tuần đầu tiên vào tháng 1 năm 1972 đã tăng lên 5.400, và tuần thứ ba trong tháng 1 về cơ bản sẽ vượt quá mức trung bình đó. Những diễn biến gần đây nhất, những tuyên bố của Tướng Giáp, việc di chuyển đơn vị, tăng cường xâm nhập, hình thành các mối đe dọa từ SAM và phòng không cũng như sự gia tăng liên tục của hoạt động xe tải ở Lào đều cho thấy ý định của kẻ thù là nỗ lực toàn lực. Chúng tôi tin rằng kẻ thù sẽ chuẩn bị sẵn sàng để gắn kết

        [Trang 4]        lực lượng chính tham chiến ở mặt trận B-3, phía bắc MR1 và ở một mức độ thấp hơn ở MR5 vào cuối tháng 1 hoặc đầu tháng 2. 4.

    (TS) Kẻ thù đang xây dựng đã bị tổn hại bởi chiến dịch ngăn chặn Commando Hunt VII, nhưng chiến dịch đã bị suy giảm do chuyển hướng nỗ lực trên không sang các nhiệm vụ khác.

    A.        Năm ngoái, số lần xuất kích của chúng tôi trong chiến dịch ngăn chặn ở Steel Tiger đã tăng từ 6625 vào tháng 11 lên 9510 vào tháng 1. Trong cùng thời kỳ năm nay, các phi vụ đình công đã giảm trong khu vực từ 4967 trong ngày 71 tháng 11 xuống còn ước tính 4710 phi vụ vào năm 72 tháng 1. Sức nặng của nỗ lực trong chiến dịch ngăn chặn đã bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện Proud Deep Alpha vào 71 tháng 12, tăng các phi vụ tấn công bay trong Barrel Roll, và tăng cường các phi vụ phòng không cần thiết cho mũ và hộ tống của MiG. Mặc dù khu vực Barrel Roll cũng hoạt động trong chiến dịch ngăn chặn 1970/1971, phần trăm tổng số cuộc tấn công và nỗ lực phòng không dành cho khu vực Barrel Roll trong năm nay lớn hơn đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái. Ví dụ: trong các ngày 70 tháng 11, 70 tháng 12 và 71 tháng 1, tỷ lệ phần trăm nỗ lực dành cho tấn công và phòng không trong Barrel Roll lần lượt là 11 phần trăm, 9 phần trăm và 10 phần trăm, so với tỷ lệ phần trăm là 17 phần trăm, 17 phần trăm và 32 phần trăm trong năm nay.

    B.        Sự hỗ trợ của Arc Light cho chiến dịch ngăn chặn cũng phản ánh sự chú trọng ngày càng tăng vào việc hỗ trợ cho Barrel Roll. Trong tháng 11 và tháng 12 năm 1970, ít hơn một phần trăm trong số 1000 phi vụ hàng tháng đã đến với Barrel Roll. Con số này so với 1 và 13 phần trăm tương ứng trong tháng 11 và tháng 12 năm 71. Chỉ có 96 phi vụ Arc Light bay trong Barrel Roll trong suốt năm 1970, con số này so với 114 phi vụ bay ở đó chỉ trong ngày 71 tháng 12. Trong 15 ngày đầu tiên của tháng 1 năm 1972, 29% tổng số cuộc tấn công của Arc Light là để hỗ trợ khu vực Barrel Roll. Nếu tốc độ này được tiếp tục, gần 300 trong số 1000 phi vụ khả dụng hàng tháng sẽ bay ra ngoài khu vực giao thông quan trọng. Điều này tiếp tục làm giảm chiến dịch gián đoạn tổng thể tại thời điểm mà tổng số lần xuất kích Tacair có sẵn ít hơn đáng kể so với trong chiến dịch trước đó.

5.    (TS) Như đã nói ở trên, trận chiến sắp tới có thể sẽ bao gồm hoạt động của MiG và SAM ở gần biên giới phía Bắc Việt Nam trong vùng lân cận của DMZ. Việc bảo vệ hiệu quả các lực lượng của chúng ta sẽ đòi hỏi các cơ quan điều hành mới phải có mặt ngay từ đầu trận chiến. Do đó, tôi yêu cầu các nhà chức trách dự phòng sau đây được chấp thuận để sử dụng khi cần thiết trong suốt trận chiến. Các cơ quan chức năng này sẽ được viện dẫn khi thích hợp khi trận chiến cho miền bắc VNCH bắt đầu.

    A.        Quyền hạn: Máy bay chiến đấu có thể tấn công máy bay MIG của địch trên bộ tại Đồng Hới, Vinh và Quán Lang.

        Cơ sở lý luận: Các máy bay MiG đóng tại các cánh đồng này gây ra rủi ro không thể chấp nhận được đối với các máy bay của Hoa Kỳ và Đồng minh hoạt động trong khu vực DMZ. MiG hoạt động

        [Trang 5]        từ Đồng Hới, cực nam của ba cánh đồng, chỉ cách miền bắc VNCH bốn phút, ngay cả với lực lượng phòng không rộng rãi / MIG tăng cường, không thể cho rằng có thể phát hiện và thu phục máy bay VNCH kịp thời để ngăn chặn các cuộc tấn công của MiG. lực lượng hữu nghị. Đối phương đã chứng tỏ khả năng sử dụng các thủ tục che chắn địa hình và tắt tiếng vô tuyến điện để triển khai các sân bay không bị phát hiện ở phía nam 19 độ Bắc và từ các sân bay này để tấn công các lực lượng bạn ở Lào. Trong một số trường hợp, thông tin tài sản thế chấp sau thực tế là cơ sở duy nhất để xác định hoạt động của MIG. Các cuộc tấn công của Tacair gần biên giới, Arc Light, pháo hạm, ABCCC, tàu chở dầu và máy bay tiếp vận đặc biệt dễ bị tấn công bởi máy bay tiêm kích / đánh chặn của NVN. Một khi MiG được bố trí tại Đồng Hới, Vinh hoặc Quan Lãng, chúng phải được coi là đã tham chiến và phải bị tấn công.

    B.        Quyền hạn: Máy bay chiến đấu, kể cả Bàn tay sắt có thể tấn công các radar GCI đang hoạt động ở NVN dưới 20 độ Bắc.

        Cơ sở lý luận: Trong nhiều năm, NVN đã có đủ nguồn lực và khả năng để tích hợp tổ hợp máy bay chiến đấu / GCI với AAA và SAM, từ đó thiết lập một hệ thống phòng không hiệu quả cao. Trong một cuộc giao tranh với MiG, các radar GCI thực hiện chức năng tương tự cho MiG cũng như các radar dẫn đường cho SAM. Mỗi khi các máy bay MiG hoạt động, hệ thống radar / GCI của NVN bắt đầu bức xạ giống như trường hợp chuẩn bị bắn tên lửa đất đối không. Với radar GCI hoạt động, các phi công MiG được cung cấp khả năng kiểm soát và cảnh báo radar tích cực, đặt họ vào một liều thuốc siêu hạng để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Rõ ràng là hoạt động tích cực của MiG gắn liền với việc kích hoạt các radar GCI của anh ta và kẻ thù đang huấn luyện ráo riết để chấm dứt việc gián đoạn các hoạt động ở Lào và phá hủy một chiếc B-52 hoặc các máy bay khác của Hoa Kỳ. Ngoài việc sử dụng radar GCI để điều khiển và máy bay chiến đấu tấn công vector, kẻ thù còn sử dụng radar GCI như một phần không thể thiếu của hệ thống điều khiển hỏa lực tên lửa SA-2. Tên lửa SA-2 được nhắm và phóng bằng cách sử dụng warni sớm.

(Còn tiếp)

Bản dịch Google™ Translator, re-edited by Hoàng Hoa, EIC VNR

2021/06/17

 

------
THE DECISIVE BATTLES IN THE VIETNAM WAR

190.  Editorial Note At 5:26 p.m., December 17, 1972, President Richard M. Nixon called Chairman of the Joint Chiefs of Staff Admiral Thomas H. Moorer. According to the President’s Daily Diary, the President, at Camp David, talked long distance with Moorer from 5:26 to 5:27 p.m.(National Archives, Nixon Presidential Materials, While House Central Files) After the conversation, Moorer drafted a memorandum for the record: “The President called me at home on Sunday afternoon, 17 December, to emphasize that he considered Linebacker II as being ‘the last chance for the Air Force and Navy to put forth a maximum effort against NVN.’ He said he recognized there have been occasions in the past when there has been competition between the Navy and Air Force but he did not want any such thing at this time. He emphasized that ‘the strikes must come off’ and that he did not expect any excuses. I carefully explained to the President the weather situation and assured

339-370/428-S/80004726   Foreign Relations, 1969–1976, Volume IX him that the all-weather strikes would go off and this included the B52s. Furthermore, I said as soon as the weather gave us an opportunity we would move forward with the visual bombing. I pointed out that we were constrained in the selection of targets and tactics because of the weather, since we were, at the same time, making every effort to avoid injury to civilians—when possible.” (Memorandum for the record, December 17, CJCS M–73–72; ibid., RG 218, Records of the Chairman, Moorer Diary, July 1970–July 1974) On December 18, 0015Z (7:15 p.m. Washington time), Moorer sent message 5829 to Admiral Noel A.M. Gayler, Commander in Chief, Pacific, with information copies to all senior commanders in the Pacific and Southeast Asia as well as to General John C. Meyer, Commander, Strategic Air Command. The message reads: “I am sure you realize that Line Backer II offers last opportunity in Southeast Asia for USAF and USN to clearly demonstrate the full professionalism, skill, and cooperation so necessary to achieve the required success in the forthcoming strikes in NVN. “You will be watched on a real-time basis at the highest levels herein Washington. We are counting on all hands to put forth a maximum, repeat maximum, effort in the conduct of this crucial operation. “Good luck to all.” (Ibid., Records of Thomas Moorer, Box 71, Line-backer II Messages, December 1972) In his diary, Nixon commented: “I have called Moorer to be sure to stiffen his back with regard to the need to follow through on these attacks. I suppose that we may be pressing him too hard, but I fear that the Air Force and Navy may in carrying out orders have been too cautious at times in the past, and that our political objectives have not been achieved because of too much caution on the military side. We simply have to take losses if we are going to accomplish our objectives.” (RN, pages 734–735)


190.  Biên tập viên Vào lúc 5:26 chiều, ngày 17/12/1972, Tổng thống Richard M. Nixon đã gọi điện cho Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Đô đốc Thomas H. Moorer. Theo Nhật ký hàng ngày của Tổng thống, Tổng thống, tại Trại David, đã nói chuyện qua điện thoại đường xa với Moorer từ 5:26 đến 5:27 chiều (Lưu trữ Quốc gia, Tài liệu của Tổng thống Nixon, Hồ sơ Trung Ương của Tòa Bạch Ốc) Sau cuộc trò chuyện, Moorer đã soạn thảo một bản ghi nhớ để lưu trữ: “Tổng thống gọi tôi ở nhà vào chiều Chủ nhật, ngày 17 tháng 12, để nhấn mạnh rằng ông coi Linebacker II là 'cơ hội cuối cùng để Không quân và Hải quân đưa ra nỗ lực tối đa chống lại Bắc Việt Nam.' Ông nói ông đã nhận ra những lần trong quá khứ khi có sự cạnh tranh giữa Hải quân và Không quân nhưng ông không muốn bất kỳ điều gì như vậy vào lúc này. Ông nhấn mạnh rằng 'các cuộc oanh tạc phải nổ ra' và ông không mong đợi bất kỳ lý do nào. Tôi cẩn thận giải thích với Tổng Thống tình hình thời tiết và để ông yên tâm.rằng
339-370 / 428-S / 80004726   Quan hệ đối ngoại, 1969 -1976, Tập IX các cuộc oanh tạc trong mọi thời tiết sẽ nổ ra và điều này bao gồm cả các B52. Hơn nữa, tôi đã nói ngay khi thời tiết cho chúng tôi cơ hội chúng tôi sẽ tiến đánh với các cuộc oanh tạc trong tầm nhìn xa. Tôi chỉ ra rằng chúng tôi bị hạn chế trong việc lựa chọn các mục tiêu và chiến thuật vì thời tiết, cùng lúc ấy, chúng tôi cố gắng hết sức để tránh thương vong cho thường dân -- khi có thể. (Bản ghi nhớ cho hồ sơ, ngày 17 tháng 12, CJCS M-73-72; ibid., RG 218, Hồ sơ của Chủ tịch, Nhật ký Moorer, 7/1970-7/1974.) Vào ngày 18 tháng 12, 0015Z *(7:15 tối giờ Washington), Moorer đã gửi tin nhắn 5829 tới Đô đốc Noel AM Gayler, Tổng tư lệnh Thái Bình Dương, với các bản sao thông tin cho tất cả các chỉ huy cấp cao ở Thái Bình Dương và Đông Nam Á cũng như Tướng John C. Meyer, Tư lệnh, Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược. Tin nhắn có nội dung: “Tôi chắc chắn các ông nhận ra rằng Line Backer II mang đến cơ hội cuối cùng ở Đông Nam Á cho USAF và USN để thể hiện rõ sự chuyên nghiệp, kỹ năng và hợp tác đầy đủ cần thiết để đạt được thành công cần thiết trong các cuộc oanh tạc sắp tới trong Bắc Việt Nam. Các ông sẽ được theo dõi trên cơ sở thời gian thực ở các mức độ cao nhất tại Washington. Chúng tôi đang đặt niềm tin tưởng vào mọi người sẽ dồn nỗ lực tối đa, lặp lại tối đa, trong việc thực hiện cuộc hành quân quan trọng này. "Chúc mọi người may mắn." (Ibid., Records of Thomas Moorer, Box 71, Line-backer II Messages, 12/1972) Trong nhật ký của mình, Nixon nhận xét: “Tôi đã gọi cho Moorer để chắc chắn ông ta cần phải cứng nhắc về sự cần thiết phải đi theo suốt các cuộc tấn công này. Tôi cho rằng chúng ta có thể đang ép ông ta quá mạnh, nhưng tôi sợ rằng Không quân và Hải quân có thể thực hiện mệnh lệnh quá thận trọng có những lần trong quá khứ, và rằng các mục tiêu chính trị của chúng ta đã không đạt được vì quá thận trọng về phía quân đội. Chúng ta chỉ phải chịu tổn thất nếu chúng ta muốn hoàn thành mục tiêu của mình.” (RN, trang 734-735)

Bản dịch Việt ngữ Hoàng Hoa VNR Vietnam Review
Note Hoàng Hoa:
*Tướng Moorer đã gởi tin nhắn 5829 đến các cấp chỉ huy quân sự vào giờ 0015Z Ngày 18/12/1972. Theo Moorer giờ 0015Z (7:15PM giờ Washington;) như thế khoảng 8:15 AM giờ Hà Nội Ngày 19/12/1972. Hành quân Line Backer II oanh tạc phong toả Hà Nội, Hải Phòng bắt đầu 1200Z Ngày 18/12/1972 tức 7:00AM giờ Washington 18/12/1972, tức 8:00PM Ngày 19/12/1972 giờ ngày Hà Nội.

---

Paris 1973, Mệnh Lệnh Hành Quân LineBacker II trȇn Biển Trời Hà Nội

Kính gởi,

Chúng tôi sẽ tiếp tục dịch sang Việt ngữ những chi tiết quan trọng liȇn quan đến Hiệp Ðịnh Paris 1973 dẫn đến việc miền Nam Việt Nam rơi vào tay CSBV ngày 30/4/1975.

Note:

1.    Linebacker II là tȇn của cuộc hành quân phong tỏa Hà Nội bằng hỏa lực hải và không quân Hoa Kỳ kể từ 12:00 sáng ngày 18/12/1972. Mệnh Lệnh được quyết định bởi TT Richard Nixon, có ý kiến của Henry Kissinger và toàn ban tham mưu.

2.    miền Nam (chữ miền thường) Việt Nam là phần đất Việt Nam từ vĩ tuyến 17 Bắc xuống. Miền Nam Việt Nam (viết hoa chữ Miền Nam) có nghĩa là Chính phủ VNCH. Cần phải tách rời phần đất miền Nam Việt Nam và thể chế VNCH và người dân Việt Nam sống dưới thể chế này. miền Nam Việt Nam có thể bị sáp nhập, nhưng thể chế và con người VNCH vẫn còn tồn tại có thể không trȇn đất miền Nam Việt Nam. Ðó là lý do tại sao miền Nam Việt Nam bị CSBV cướp mất, nhưng lá cờ của VNCH và con người VNCH vẫn còn được thương mến và tôn trọng trȇn thế giới. Ngày nay thể chế VNCH và con người VNCH vẫn là hình ảnh thương mến và tôn trọng trȇn đất Việt Nam chứ không riȇng miền Nam Việt Nam.

3.    Mỗi vĩ tuyến cách nhau 111.111 km nȇn vĩ tuyến 20 độ Bắc (tỉnh Ninh Bình) cách vĩ tuyến 17 độ Bắc (cửa Tùng) khoảng 333.333km.

Hoàng Hoa

VNR Vietnam Review

2020/06/10

~~~~~~~

Mệnh Lệnh Hành Quân LineBacker II 18/12/1972

712 Quan hệ đối ngoại, 1969-1976, Tập IX 184.

Thông điệp từ Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân (Moorer) đến Tổng tư lệnh, Thái Bình Dương (Gayler) và Tổng tư lệnh, Bộ tư lệnh không quân chiến lược (Meyer) 1 Washington, 17/12/1972, 0010Z.5384. Gởi đi khi nhận được message. Subj: Các hoạt động của Linebacker II (U) .Refs: A. JCS 2498 / 110339Z 72 tháng 11. B. JCS 9222 / 261749Z 72 tháng 11. C. JCS3348 / 150147Z 72/12.


1.    Tài liệu tham khảo (A) giải quyết các hạn chế và ưu tiên hiện tại liên quan đến tiến hành các cuộc hành quân trȇn không và hỏa lực hải quân trȇn Bắc Việt Nam. Tài liệu tham khảo (B) giới hạn số quân dụng vũ khí giao cho các phi vụ tấn công Bắc Việt Nam. Tham chiếu (C) là tin nhắn cảnh báo Linebacker II. Các tham chiếu (A) và (B) đều bị hủy bỏ theo đây.
2.    Đây là một tin nhắn thực thi mệnh lệnh.
3.    Các ông được lệnh bắt đầu vào khoảng 1200Z, ngày 18 tháng 12 năm 1972 một nỗ lực tối đa ba ngày, lặp lại nỗ lực tối đa, các cuộc không kích của B52/Không quân Chiến thuật ở khu vực Hà Nội /Hải Phòng chống lại các mục tiêu chứa đựng trong tài liệu tham khảo (C). Đối tượng là phá hủy tối đa các mục tiêu quân sự được lựa chọn trong vùng lân cận Hà Nội /Hải Phòng. Hãy chuẩn bị gia hạn cho các hành quân lâu hơn ba ngày, nếu được chỉ thị.
4.    Các hướng dẫn sau được áp dụng: A. Sử dụng khả năng tầm nhìn cũng như trong mọi thời tiết. B. Sử dụng tất cả các nguồn lực có thể được sử dụng mà không gây bất lợi nghiêm trọng cho các hành quân ở Việt Nam Cộng Hòa và sự hỗ trợ các tình huống khẩn cấp ở Lào và Campuchia. C. Sử dụng các cuộc tái không tập các mục tiêu được ủy quyền, khi cần thiết. Mệnh lệnh chiến đấu trȇn không, các sân bay và các vị trí phi đạn đất-đối-không đang hoạt động của Bắc Việt Nam có thể bị tấn công như tình hình chiến thuật bắt buộc nhằm làm tốt hơn hiệu quả của các lực lượng tấn công và giảm thiểu các tổn thất. D. Các ông được phép giảm các hoạt động B52 được đòi hỏi trong thời hạn 24 giờ trước khi bắt đầu các hoạt động này để áp dụng nỗ lực tối đa chống các mục tiêu theo lịch trình. E. Tất cả các máy bay B52 sẽ mang vũ khí tối đa. F. Thực hiện sự phòng ngừa để giảm thiểu rủi ro về thương vong dân sự sử dụng vũ khí bomb tia laser chống lại các mục tiêu được chỉ định. Tránh thiệt hại cho sự vận chuyển tàu bè của nước thứ ba. G. Các hoạt động hoả lực của hải quân được ủy quyền dọc theo bờ biển Bắc Việt Nam phía bắc vĩ tuyến hai mươi độ để bổ sung cho nỗ lực không kích. Không sử dụng trước hỏa lực từ tàu hải quân để duy trì sự bất ngờ tối đa các cuộc không kích.
5.    Các Thẩm quyền hành quân. Thẩm quyền hiện nay của Linebacker áp dụng.
6.    Hướng dẫn các vấn đề công chúng sẽ được cung cấp bằng tin nhắn riêng.
7.    Trân trọng.

Bản dịch Việt ngữ Hoàng Hoa
VNR Vietnam Review June 10, 2020
https//www.quandiemvietnam/blogspot.com

 ---
World

In 1972, The U.S. Air Force Saved South Vietnam From Certain Defeat

Michael Peck
The National Interest

Click here to read the full article.
Here's What You Need To Remember: Operation Linebacker also provided a glimpse of the high-tech warfare yet to come. Laser-guided smart bombs were used to destroy heavily defended bridges that had withstood conventional bombs. When North Vietnamese MiG fighters rose to meet the attackers, they found a surprise: U.S. Navy pilots trained under a Top Gun program that finally remedied deficient American training in air combat tactics, who proved more than a match for their Communist counterparts.
Had it not been for the U.S. Air Force and Navy, the Vietnam War might have ended in the spring of 1972 with North Vietnamese tanks in the streets of Saigon.
It was forty-five years ago, on March 30, 1972, that fourteen North Vietnamese divisions backed by more than three hundred tanks crossed the Demilitarized Zone into South Vietnam. It was an assault every bit as ferocious as the Tet Offensive in 1969, and perhaps even more so: where Tet had been an uprising by Viet Cong guerrillas backed by regular North Vietnamese troops, the Easter Offensive of 1972 was a blitzkrieg, a conventional mechanized assault by troops well-equipped with armor, artillery and antiaircraft weapons (in the words of author Michael Herr, “People’s Army, my ass”). Several North Vietnamese Army, or NVA, divisions crossed the DMZ into the northern tip of South Vietnam. Other forces struck from their bases in ostensibly neutral Cambodia into the southwest part of South Vietnam, perilously close to Saigon.

Unlike Tet, the South Vietnamese army, or ARVN, would not have U.S. ground troops fighting beside them or instead of them. American advisers could assist the South Vietnamese, but with America in the midst of withdrawing its ground troops and the American public tired of casualties, ground combat units would not be committed to the battlefield. The ARVN would have to fight its own battle.
Unfortunately, the ARVN was not up to the task. Facing their better-armed, better-trained, better-led and better-motivated cousins from the North, some ARVN troops surrendered or fled. Yet belying the image of cowardly South Vietnamese, some units fought bravely and well. The defenders of An Loc, near the Cambodian border and just eighty miles from Saigon, fought on for weeks as they stalked NVA tanks through the streets with LAW handheld antitank rockets.
Nonetheless, the South Vietnamese were simply outmatched. The key northern border town of Quang Tri fell, and the NVA advanced to the gates to the vital city of Hue. Hampered as always by timid, incompetent or corrupt commanders, the ARVN and South Vietnam were in trouble.
Then salvation came from the skies. Airpower had always been a key factor—actually the key factor—factor in America’s favor during the war in Indochina. But this time, it was the only politically feasible means by which the United States could aid South Vietnam in 1972. By that time, the American air fleet in Southeast Asia had dwindled to about eight hundred combat aircraft in Vietnam and Thailand, including two U.S. Navy carrier air wings. Illustrating the flexibility of airpower, by the end of May, an additional four hundred Air Force fighters had arrived, plus four more carriers. Most significantly, the aerial armada included more than two hundred B-52s.
Bad early spring weather initially limited air support. But the American pilots soon made their presence felt. The U.S. Army made its contribution: AH-1 Cobra helicopter gunships, equipped with new TOW wire-guided antitank missiles and 2.75-inch rockets, blasted NVA tanks and troops at An Loc and at Kontum. But the biggest pounding came from U.S. Air Force, Navy and Marine aircraft, along with South Vietnamese aircraft.
“Massive amounts of airpower were sent to support An Loc’s defenders,” writes U.S. Air Force officer Matthew Brand. “B-52s continued to strike NVA assembly and other rear areas. US A-6s, A-7s, F-4s, A-37s and VNAF [South Vietnamese Air Force] A-1s struck the massed NVA on the outskirts of the city, while fixed-wing gunships and Cobra helicopters worked the close-in targets. Tactical airpower was used primarily during the day and gunships were the primary night platform.”
Through April and May, An Loc remained under siege sustained by constant air support and aerial resupply, which enabled the defenders to repulse assault after NVA assault. By the end of May, after suffering an estimated twenty-five thousand casualties, the North Vietnamese called off their attempt to take the city.
Meanwhile, North Vietnam was feeling the wrath of American airpower. Under Operation Linebacker I, U.S. warplanes struck railroad bridges, rail yards, oil tanks and munitions dumps across North Vietnam. Particularly significant was the mining of Haiphong Harbor by Navy aircraft, which sharply reduced Soviet arms shipments.
Operation Linebacker also provided a glimpse of the high-tech warfare yet to come. Laser-guided smart bombs were used to destroy heavily defended bridges that had withstood conventional bombs. When North Vietnamese MiG fighters rose to meet the attackers, they found a surprise: U.S. Navy pilots trained under a Top Gun program that finally remedied deficient American training in air combat tactics, who proved more than a match for their Communist counterparts.
However, the losses ran both ways. Some 134 American aircraft were lost over North Vietnam alone during Operation Linebacker. Over South Vietnam, U.S. pilots contended with thick antiaircraft fire and new shoulder-fired SA-7 missiles that rendered low-level attacks hazardous.
Ironically, the Communists had forsaken their best defense against American airpower. When they had previously operated as guerrillas, moving on foot through the jungle, they could move fast and light to avoid air strikes. But Hanoi had gambled that the time was ripe to switch from guerrilla warfare to a conventional offensive that would deliver the death blow to the Saigon government. But the North Vietnamese discovered what had the Germans had learned in Normandy in 1944: mechanized warfare without control of the skies meant tanks and trucks in the open vulnerable to bombing. Vehicles also needed vast amounts of fuel and ammunition over supply lines that could be interdicted from the air.
At the cost of an estimated hundred thousand casualties, Hanoi gained some territory along South Vietnam’s northern border before ending its offensive. But it had failed to conquer the South. The ARVN had also suffered tremendously, and had only held on because of American airpower. But hold it did, which perhaps was as much as could be expected.
Yet as with the whole Indochina conflict, there would be no happy ending. South Vietnam would survive, but only for another three years. In 1973, the last U.S. troops and POWs would return home. Tired of war and enmeshed in Watergate, inflation and the oil crisis, Congress cut off aid to South Vietnam.
In 1975, North Vietnam launched another mechanized offensive. Short of ammunition and low on morale, this time the ARVN found no help from the skies. Saigon fell in April 30, 1975.
Michael Peck is a contributing writer for the National Interest. He can be found on Twitter and Facebook. This article first appeared several years ago.
Image: Wikipedia.
Click here to read the full article.

----
Đây là những gì bạn cần nhớ:  Nếu không phải là cho Không quân và Hải quân Hoa Kỳ, Chiến tranh Việt Nam có thể đã kết thúc vào mùa xuân năm 1972 với xe tăng Bắc Việt trên đường phố Sài Gòn.
Đó là bốn mươi lăm năm trước, vào ngày 30 tháng 3 năm 1972, mười bốn sư đoàn Bắc Việt được hậu thuẫn bởi hơn ba trăm xe tăng đã vượt qua Khu phi quân sự vào Nam Việt Nam. Đó là một cuộc tấn công dữ dội không kém gì cuộc tấn công Tết năm 1969, và có lẽ còn hơn thế: trong đó Tết là một cuộc nổi dậy của quân du kích Việt Cộng được hỗ trợ bởi quân đội Bắc Việt thường xuyên, Cuộc tấn công Phục sinh năm 1972 là một cuộc tấn công cơ giới thông thường cuộc tấn công của quân đội được trang bị tốt với vũ khí, áo giáp và vũ khí phòng không (theo lời của tác giả Michael Herr, Quân đội Nhân dân, Ass của tôi). Một số quân đội Bắc Việt, hay NVA, đã chia cắt DMZ vào mũi phía bắc của miền Nam Việt Nam. Các lực lượng khác tấn công từ các căn cứ của họ ở Campuchia trung lập bề ngoài vào phía tây nam của Việt Nam, rất gần với Sài Gòn.

Không giống như Tết, quân đội miền Nam Việt Nam, hay QLVNCH, sẽ không có quân đội mặt đất Hoa Kỳ chiến đấu bên cạnh họ hoặc thay vào đó. Các cố vấn Mỹ có thể hỗ trợ Nam Việt Nam, nhưng với Mỹ trong khi rút quân đội mặt đất và công chúng Mỹ mệt mỏi vì thương vong, các đơn vị chiến đấu mặt đất sẽ không được đưa vào chiến trường. Quân đội VNCH sẽ phải chiến đấu với trận chiến của chính mình.
Thật không may, QLVNCH không theo kịp nhiệm vụ. Đối mặt với những người anh em được vũ trang tốt hơn, được đào tạo tốt hơn, được lãnh đạo tốt hơn và có động lực tốt hơn từ miền Bắc, một số quân đội VNCH đã đầu hàng hoặc bỏ chạy. Tuy nhiên, hình ảnh của người miền Nam hèn nhát, một số đơn vị đã chiến đấu dũng cảm và tốt. Các đạo quân phòng thủ của An Lộc, gần biên giới Campuchia và chỉ tám mươi dặm từ Sài Gòn, chiến đấu trên nhiều tuần khi họ chống xe tăng Cộng Quân qua các đường phố với tên lửa chống tăng LAW (Light Anti-Tank Weapon M-72) cầm tay.
Tuy nhiên, người miền Nam đơn giản là bị vượt trội. Thị trấn biên giới phía bắc Quảng Trị thất thủ, và Cộng quân tiến đến cổng thành phố Huế quan trọng. Bị cản trở như mọi khi bởi các chỉ huy rụt rè, bất tài hoặc tham nhũng, quân đội VNCH và miền Nam Việt Nam gặp rắc rối.
Rồi sự cứu rỗi đến từ bầu trời. Không lực luôn là yếu tố then chốt, thực sự là nhân tố chính yếu trong sự ủng hộ của Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Nhưng lần này, đó là phương tiện khả thi về mặt chính trị duy nhất mà Hoa Kỳ có thể hỗ trợ Nam Việt Nam vào năm 1972. Vào thời điểm đó, hạm đội không quân Mỹ ở Đông Nam Á đã giảm xuống khoảng tám trăm máy bay chiến đấu ở Việt Nam và Thái Lan, trong đó có hai tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ. Minh họa cho sự linh hoạt của không quân, vào cuối tháng 5, thêm bốn trăm máy bay chiến đấu của Không quân đã đến, cộng thêm bốn tàu sân bay. Đáng kể nhất, thiết giáp trên không bao gồm hơn hai trăm chiếc B-52.
Thời tiết đầu xuân xấu ban đầu hỗ trợ không khí hạn chế. Nhưng các phi công Mỹ đã sớm làm cho sự hiện diện của họ cảm thấy. Quân đội Hoa Kỳ đã đóng góp: các máy bay trực thăng AH-1 Cobra, được trang bị tên lửa chống tăng dẫn đường TOW mới và tên lửa 2,75 inch, nổ tung xe tăng và quân đội NVA tại An Lộc và tại Kontum. Nhưng tiếng đập lớn nhất đến từ máy bay của Không quân, Hải quân và Hải quân Hoa Kỳ, cùng với máy bay Nam Việt Nam.
Số lượng lớn lực lượng không quân được gửi đến để hỗ trợ những người bảo vệ của An Lộc, sĩ quan viết cho Không quân Hoa Kỳ Matthew Brand. Những chiếc B-52 tiếp tục tấn công nơi tập trung quân Bắc Việt và các khu vực phía sau khác. Các máy bay A-6, A-7, F-4, A-37 và VNAF [Không quân miền Nam] của Hoa Kỳ đã tấn công Cộng quân đông đảo ở ngoại ô thành phố, trong khi các máy bay chiến đấu cánh cố định và trực thăng Cobra hoạt động gần trong mục tiêu. Không quân chiến thuật được sử dụng chủ yếu vào ban ngày và các cuộc đấu súng là nền tảng ban đêm.
Cho đến tháng Tư và tháng Năm, An Lộc vẫn bị bao vây bởi sự hỗ trợ trên không và tiếp tế trên không liên tục, cho phép quân phòng vệ đẩy lùi cuộc tấn công sau cuộc tấn công của NVA. Đến cuối tháng 5, sau khi chịu tổn thất ước tính khoảng hai mươi lăm ngàn, Bắc Việt đã từ bỏ nỗ lực chiếm lấy thành phố.
Trong khi đó, Bắc Việt Nam đang cảm thấy cơn thịnh nộ của không quân Mỹ. Theo Chiến dịch Linebacker I, các máy bay chiến đấu của Hoa Kỳ đã tấn công các cây cầu đường sắt, sân đường sắt, bể chứa dầu và đạn dược trên khắp miền Bắc Việt Nam. Đặc biệt quan trọng là việc khai thác cảng Hải Phòng bằng máy bay của Hải quân, giúp giảm mạnh các chuyến hàng vũ khí của Liên Xô.
Chiến dịch Linebacker cũng cung cấp một cái nhìn thoáng qua về cuộc chiến kỹ thuật  cao chưa xảy ra. Bom thông minh dẫn đường bằng tia laser được sử dụng để phá hủy những cây cầu được bảo vệ nghiêm ngặt đã chống lại những quả bom thông thường. Khi các máy bay chiến đấu MiG của Bắc Việt Nam gặp gỡ những kẻ tấn công, họ đã phát hiện một điều bất ngờ: Các phi công của Hải quân Hoa Kỳ được huấn luyện theo chương trình Top Gun cuối cùng đã vượt qua sự huấn luyện thiếu sót của Mỹ về chiến thuật không chiến, người đã chứng minh nhiều hơn một tương xứng cho các đối tác Cộng sản của họ.
Tuy nhiên, các tổn thất có về cả hai phía. Một số 134 máy bay Mỹ đã bị mất riȇng ở Bắc Việt Nam trong Chiến dịch Linebacker. Ở miền Nam Việt Nam, các phi công Hoa Kỳ đã chiến đấu với hỏa lực phòng không dày và tên lửa SA-7 mới bắn vào vai khiến các cuộc tấn công bay thấp trở nên nguy hiểm.
Trớ trêu thay, Cộng sản đã từ bỏ phòng thủ tốt nhất của họ chống lại không quân Mỹ. Khi trước đây họ từng hoạt động như du kích, di chuyển bằng chân xuyên qua rừng rậm, họ có thể di chuyển nhanh và nhẹ để tránh các cuộc không kích. Nhưng Hà Nội đã đánh bạc rằng thời gian đã chín muồi để chuyển từ chiến tranh du kích sang một cuộc tấn công thông thường sẽ giáng một đòn chí tử vào chính quyền Sài Gòn. Nhưng người Bắc Việt đã phát hiện ra những gì người Đức đã học được ở Normandy năm 1944: chiến tranh cơ giới hóa mà không kiểm soát bầu trời có nghĩa là xe tăng và xe tải ở ngoài trời dễ bị ném bom. Xe cũng cần một lượng lớn nhiên liệu và đạn dược trên các đường cung cấp có thể bị chặn lại từ trên không.
Với tổn thất ước tính hàng trăm ngàn người, Hà Nội đã giành được một số lãnh thổ dọc biên giới phía bắc Nam Việt Nam trước khi kết thúc cuộc tấn công. Nhưng nó đã thất bại trong việc chinh phục miền Nam. Quân đội VNCH cũng đã phải chịu đựng rất nhiều, và chỉ bám giữ lại được nhờ không quân Mỹ. Nhưng đã bám giữ lại được những gì, mà có lẽ là nhiều như có thể mong đợi.
Tuy nhiên, như với toàn bộ cuộc xung đột Đông Dương, sẽ không có kết thúc có hậu. Miền Nam Việt Nam sẽ tồn tại, nhưng chỉ trong ba năm nữa. Năm 1973, quân đội và tù binh cuối cùng của Hoa Kỳ sẽ trở về nước. Mệt mỏi vì chiến tranh và chìm đắm trong Watergate, lạm phát và khủng hoảng dầu mỏ, Quốc hội đã cắt viện trợ cho miền Nam Việt Nam.
Năm 1975, Bắc Việt đã phát động một cuộc tấn công cơ giới hóa khác. Thiếu đạn dược và tinh thần thấp, lần này QLVNCH không tìm thấy sự giúp đỡ nào từ bầu trời. Sài Gòn thất thủ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Michael Peck là một nhà văn đóng góp cho The National Interest . Anh ta có thể được tìm thấy trên Twitter và Facebook . Bài viết này lần đầu tiên xuất hiện vài năm trước.
Bản dịch Hoàng Hoa VNR Vietnam Review


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét