Bản dịch Việt
ngữ Hiệp Ðịnh Ðình Chiến cho Việt Nam 1954, từ trang 76 đến trang 94 do Sông Hồng
dịch vào năm 2003 và in thành sách trong năm đó.
Nay xin kính
gởi để đọc giả và thân hữu được tường. Lần này bản phân tích đăng trȇm VNR
(Vietnam Review) để các đọc giả nước ngoài đọc được qua thông dịch của Google™.
Trân trọng.
Link:
Hiệp Ðịnh
Ðình Chiến Genève (Geneva) cho Việt Nam 1954
Bản dịch Việt
ngữ của Sông Hồng www.viettrade.net trong tác phẩm Những Hiệp Ước Trȇn Biȇn Giới
Việt Trung 1884-1935, edition 2003, 2013 in tại San Jose, Ca USA 2003. Sông Hồng
là một bút danh của Hoàng Hoa.
Note:
A.
Trong bản dịch Việt ngữ Hiệp Ðịnh Ðình Chiến
Genève (Geneva) cho Việt Nam 1954 có vài lỗi từ vựng như sau, kính mong quý độc
giả xóa bỏ thay bằng từ mới.
1.
Sự
cố thay bằng biến cố,
việc xãy ra.
2.
Trang
79 Chỉ Ðạo thay bằng Hướng Dẫn
3.
Trang
85 Rạp hát thay bằng chiến trường, mặt trận.
B.
Lưu
ý:
a. Ðường phân ranh không phải con đường (road) mà là sông Bến Hải. Sông Bến Hải không phải
nằm ngang trȇn vĩ tuyến 17 mà từ biȇn giới Lào Việt chảy theo hướng tương đối
Tây Ðông cho đến khi gặp đường Tỉnh lộ D17 thì chảy theo hướng Tây Tây Nam – Ðông Ðông Bắc
hướng ra cửa sông Bến Hải (còn gọi là cửa Tùng.)
b.
Cửa
Tùng không nằm trȇn vĩ tuyến 17 (17th parallel). Vĩ tuyến 17 nằm ở vị
trí khoảng 100m phía Bắc trȇn đường Quốc Phòng so với giao điểm nó với con đường
76 (hai con đường này mới trȇn Google™ map sau 1954.)
c.
Trong
Văn bản Hiệp Ðình Ðình Chiến 1954 không hề đề cập đến vĩ tuyến 17. Ðiều 4 viết:
Ðường phân ranh quân sự tạm thời giữa hai
khu tái tập trung cuối cùng được kéo dài vào những vùng nước thuộc lãnh thổ bởi
một đường trực giao với đường thẳng tổng quát của bờ biển.Tất cả đảo ven biển
(territorial coastal islands) phía bắc của đường biên giới này sẽ được di tản bởi
lực lượng võ trang của Liên Hiệp Pháp, và tất cả các đảo phía nam của nó sẽ được
di tản bởi các lực lượng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ðường phân ranh thực
ra đó là giòng sông Bến Hải và cuối cùng là cửa Tùng, tại đây nếu kéo dài vào những vùng nước thuộc lãnh thổ bở một đường trực
giao với đường thẳng tổng quát thì thật rất mơ hồ. “Ðường thẳng tổng quát
là thế nào? Và đường kéo dài (nếu là một đường vĩ tuyến) tại cửa Tùng thì phải
trȇn vĩ tuyến 17.
d.
Trong
Văn bản Hiệp Ðình Ðình Chiến 1954 không nói đến 2 quần đảo Hoàng sa và Trường
Sa là 2 quần đảo của Việt Nam trȇn Biển Ðông do người Pháp bảo hộ. Trong khi Hiệp
Ðịnh Hoà Bình San Francisco 1951 nước Nhật có đề cập đến hai quần đảo này. Ngoại
Trưởng Sô Viết Gromyko có phȇ bình Hiệp ước không đề cập trả quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa cho Trung cộng, nhưng sự phȇ bình của Gromyko không được đáp trả.
e.
Khi
Nhật Bản thua trận thì theo Hiệp ước Postdam, quân Tưởng Giới Thạch (Tưởng) vào
Bắc Việt để giải giới quân Nhật, nhưng ngày 26/6/1946 quân Tưởng đã lén chiếm đảo
Phú Lâm phía Nam vĩ tuyến 17. Phía Pháp phản đối sự chiếm đóng này vào ngày 13/1/1947
và gởi chiến hạm Le Tonkinois ra Hoàng sa, nhưng chiến hạm đã quay trở về Hoàng
Sa và để đổ bộ 10 quân nhân Pháp và 17 quân nhân Việt lȇn đảo (Hoàng sa) Pattle[1]. Như vậy sau Hiệp Ước Hoà
Bình San Francisco 1951 tất cả các phe Nga, Trung Cộng, Việt Minh, Pháp, ngay cả
Mỹ đều biết rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam nhưng không ai nói. Vì
Tưởng bỏ chạy ra Ðài Loan năm 1950 nȇn quần đảo Hoàng Sa năm 1954 nằm trong tay
Pháp, hơn nữa tình hình hội nghi Geneva vô cùng căng thẳng trȇn đất liền Việt
Nam, Lào và Cambodge nȇn không ai quan tâm đến hai quần đảo này.
f.
Tháng
6/1948 nước Quốc Gia Việt Nam được độc lập nhưng ở trong Liȇn Hiệp Pháp với người
lãnh đạo là Quốc Trưởng Bảo Ðại, nước Việt Nam hoàn toàn độc lập ngày 3/6/1954.
Xem Chapter II. B.1.1.b Tài liệu Tối Mật của Pentagon De-classified 2011. Như vậy
khi Thủ tướng Trần Văn Hữu ký kết Hiệp ước Hoà Bình San Francisco 1951 thì hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chính thức thuộc chủ quyền Việt Nam, mặc dù còn
sự chiếm đóng và bảo vệ của hải quân Pháp.
g.
Về
đường phân ranh thì Việt Minh muốn lấy vĩ tuyến 13 khoảng Tuy Hòa, nhưng ban đầu
Pháp đề nghị vĩ tuyến 18 Thakhek-Ðồng Hới với Chu Ân Lai rồi sau Pháp đổi ý vĩ
tuyến 17. Việc chọn vĩ tuyến phân ranh không do tự ý Việt Minh có quyền quyết định
mà cần có ý kiến của Liȇn sô và Trung cộng. Phía Chính phủ Quốc Gia Việt Nam và
các thành phần quốc gia không chấp nhận sự chia đôi lãnh thổ.
h.
Trong
suốt quá trình Hội Nghị và ký kết Hiệp ước có hai phe rõ rệt Sô Viết, Trung Cộng
và Việt Minh phe bȇn kia là Pháp, Mỹ, Anh, New Zealand, Úc, nhưng khi ký kết Hiệp
Ðịnh Genève chỉ có hai bȇn giữa Pháp (Deitel) và Việt Minh khi đó danh xưng
VNDCCH (Tạ Quang Bửu) ký kết mà thôi.
i.
Hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không đề cập trong Hiệp Ðịnh Genève 1954, nhưng
trực thuộc chủ quyền nước Quốc Gia Việt Nam; do dó, sau khi Pháp rút quân vì miền
Nam do Tổng Thống Ngô Ðình Diệm lãnh đạo còn quá nhiều việc, Trung cộng đã lén
chiếm đánh cắp đảo Phú Lâm của chúng ta vào 21/2/1956[2] chưa đầy 2 năm sau ký kết
Hiệp Ðịnh Genève, tức là trȇn nguyȇn tắc hai miền Nam Bắc Việt Nam chuẫn bị tiến
hành tổ chức tổng tuyển cử.
j.
Sự
việc đánh lén và ăn cắp đảo Phú Lâm tất nhiȇn Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng phải
biết. Công hàm 1958 do Phạm Văn Ðồng ký kết chắc chắn có sự nhìn nhận sự chiếm
đóng đảo Phú Lâm này của Trung cộng để đổi lấy vũ khí súng đạn trang bị cho Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam và quân Bắc Việt vượt Trường Sơn tiến đánh nước VNCH bắt
đầu từ năm 1960. Việc phân chia lãnh thổ Việt Nam qua Hiệp Ðịnh Genève 1954 ai
nấy đều biết chỉ là tạm thời và chắc chắn không tránh khỏi chiến tranh sau đó.
Như vậy với sự đánh đổi đảo Phú Lâm, Việt Cộng đã sẳn sàng cho cuộc chiến tranh
xâm chiếm miền Nam với tất cả vũ khí súng ống đạn dược được Liȇn Sô và Trung cộng
cung cấp.
k.
Về
tính pháp lý chủ quyền của VNCH là nước thừa kế Quốc Gia Việt Nam, Phạm Văn Ðồng
và Hồ Chí Minh không thể tự ý nhìn nhận chủ quyền của Trung cộng trȇn đảo Phú Lâm
vì căn cứ đường phân chia hai miền, vào năm 1958, đảo Phú Lâm nằm dưới vĩ tuyến
17 thuộc chủ quyền nước VNCH.
l.
Vào
năm 1973 Mỹ ký kết Hiệp định Paris với Việt Cộng và rút quân thì một năm sau ngày
19/1/1974 Trung cộng lén đánh chiếm đảo Hoàng Sa của VNCH. Lần này Phạm Văn Ðồng
im lặng.
m. Ngày nay hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa vẫn còn là di sản VNCH.
Hoàng Hoa
2020/5/04
Tưởng Niệm 30/4/1975. Hai Hiệp Ðịnh Ðình Chiến 1954, 1973.
Kính thưa
quý thân hữu và độc giả:
Hai Hiệp Ðịnh
Ðình Chiến Geneva 1954 và Paris 1973 gắn liền với số phận của dân tộc Việt Nam
và nói chung các dân tộc Ðông Dương; tuy thời gian xa nhất là 66 năm và gần nhất
47 năm, nhưng chắc chắn trong nhiều người Việt có thể không thể hiểu hết hai Hiệp
Ðịnh này tác động đến lịch sử Việt Nam ra sao.
Hiểu biết một
cách trung thực nhất hai văn kiện lịch sử này có thể chính là giải phóng
(liberate) tư tưởng con người chúng ta tiến gần đến sự hiểu biết những tác động
lớn nhất mà những quyền lực chính trị trong và ngoài nước đã thực hiện trȇn
mãnh đất Việt Nam và trong lịch sử cận đại của dân tộc Việt Nam.
Ðây là một
cuộc nghiȇn cứu sâu rộng mà sự hiểu biết một cá nhân có thể khó hoàn tất được,
nhưng muốn đi đến kết luận trong sáng, những bài vỡ, ý kiến cần phải được thực
hiện đồng bộ và hướng về một điểm chung. Tất cả bài vỡ nȇn có kết luận mở (open
conclusion) và không bắt buộc người đọc phải tuân thủ theo kết luận. Các từ vựng
và hành văn theo nền tảng văn hóa giáo dục VNCH. Bài viết chỉ cần về một điều khoản
(Article) nào đó trong hai Hiệp Ðịnh và không nȇn trích dẫn, lấy từ bài của tác
giả khác.
Chúng tôi hy
vọng sẽ nhận được những bài viết từ độc giả và thân hữu nghiȇn cứu viết về hai
Hiệp Ðịnh 1954 và 1973. Chúng tôi sẽ xem xét cẩn thận những bài vỡ gởi đến chúng
tôi, nếu xét thấy phù hợp với quan điểm của VNR chúng tôi sẽ đăng tải lȇn VNR
Vietnam Review để mọi người cùng xem xét. Nếu xét thấy không phù hợp với VNR,
chúng tôi sẽ không đăng tải và không phúc đáp. Bài viết theo format MS Word và
gởi đi theo hai format MS Word và pdf.
Theo dự trù,
cuộc nghiȇn cứu có thể hoàn tất trong hai năm.
Trân trọng,
Hoàng Hoa
Trưởng Ban
Biȇn Tập VNR Vietnam Review
Thứ Năm 2020/4/30
-----------------
Hai Hiệp Ðịnh Ðình Chiến 1973 và 1954 Cho Việt Nam, Cambodge, và Lào
(Kính mong quý vị độc giả lưu ý. Trong khi dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ, trình thông dịch của Google™ đã không thể dịch sát với ý từ ngữ Việt Nam. Tuy nhiȇn, chúng tôi vẫn giữ nguyȇn công dụng của trình thông dịch của Google™ vì ít nhiều có thể giúp quý độc giả nhìn ra được sai sót này và chỉnh sửa lại cho đúng.)
Hiệp Ðịnh
Ðình Chiến Paris 1973
No. 13295
(a) UNITED STATES
OF AMERICA, DEMOCRATIC REPUBLIC
OF VIET-NAM, PROVISIONAL REVOLUTIONARY
GOVERNMENT OF THE
REPUBLIC OF SOUTH
VIET-NAM and REPUBLIC
OF VIET-NAM Agreement on
ending the war
and restoring peace
in Viet-Nam. Signed
at Paris on
27 January
1973 Authentic texts:
English and Vietnamese.
(b) UNITED STATES
OF AMERICA and DEMOCRATIC
REPUBLIC OF VIET-NAM Agreement on
ending the war
and restoring peace
in Viet-Nam. Signed
at Paris on
27 January
1973 Authentic texts:
English and Vietnamese. Registered by
the United States
of America on
13 May 1974.
(ab) CAMBODIA, DEMOCRATIC REPUBLIC
OF VIET-NAM, FRANCE,
LAOS, PEOPLE'S REPUBLIC
OF CHINA, STATE
OF VIET-NAM, UNION
OF SOVIETSOCIALIST
REPUBLICS, UNITED KINGDOM OF GREAT
BRITAIN AND NORTHERN
IRELAND and UNITED
STATES OF AMERICA
Final Declaration of the
Geneva Conference on
the problem of
restoring peace in
Indo-China (with (1)
declarations by Cambodia,
France, Laos, the
State of Viet-Nam
and the United
States of America;
(2) the Agreement
on the cessation
of hostilities in
Viet-Nam between the
Commander-in-Chief of the
People's Army of
Viet-Nam and the
Commander-in-Chief of the
French Union Forces
in Indo-China, signed
at Geneva on
20 July 1954
(with maps); (3)
the Agreement on
the cessation of
hostilities in Laos
between the Commander-in-Chief
of the forces
of the French
Union in Indo-China,
on the one
hand, and the
Commanders-in-Chief of the
fighting units of
"Pathet- Lao” and
of the People's
Army of Viet-Nam,
on the other
hand, done at
Geneva on 20
July 1954, and
(4) the Agreement
on the cessation
of hostilities in
Cambodia between the
Commander- in-Chief of
the Khmer National
Armed Forces, on
the one hand,
and the Commanders-in-chief
of the Khmer
Resistance Forces and
of the Viet-Namese
Military Units, on
the other hand,
done at Geneva
on 20 July
1954). Done at
Geneva on 21
July 1954
Authentic text of the Final Declaration : French. Authentic texts of the related declarations : French and English. Authentic texts of the Agreement on the cessation of hostilities in Viet-Nam : French and Vietnamese.Authentic texts of the Agreements on the cessation of hostilities in Laos and in Cambodia : French.Texts communicated on 15 January 1975 to the Secretariat by the Government of the United States of America, for the purpose of information and in connexion with the registration of the Paris agreements of 27 January 1973. (Maps Nos. 1 to 6 annexed to the Agreement on the cessation of hostilities in Viet-Nam were supplied by the French Government.) No. 13295
AGREEMENT1 ON ENDING THE WAR AND RESTORING PEACE IN VIET-NAM
The Parties participating in the Paris Conference on Viet-Nam, With a view to ending the war and restoring peace in Viet-Nam on the basis of respect for the Vietnamese people's fundamental national rights and the South Vietnamese people's right to self-determination, and to contributing to the consolidation of peace in Asia and the world, Have agreed on the following provisions and undertake to respect and to implement them:
AGREEMENT1 ON ENDING THE WAR AND RESTORING PEACE IN VIET-NAM
The Parties participating in the Paris Conference on Viet-Nam, With a view to ending the war and restoring peace in Viet-Nam on the basis of respect for the Vietnamese people's fundamental national rights and the South Vietnamese people's right to self-determination, and to contributing to the consolidation of peace in Asia and the world, Have agreed on the following provisions and undertake to respect and to implement them:
...
Read full document in pdf
Hiệp Ðịnh
Ðình Chiến Geneva 1954
Geneva Agreements 20-21 July 1954
Agreement on the Cessation of Hostilities in Viet-Nam
20 July 1954 CHAPTER I
Provisional Military Demarcation Line and Demilitarized Zone
Article 1
A provisional military demarcation line shall be fixed, on either sideof which the forces of the two parties shall be regrouped after their withdrawal, the forces of the People's Army of Viet-Nam to the north of the line and the forces of the French Union to the south.
The provisional military demarcation line is fixed as shown on the map attached (see Map No. 1). It is also agreed that a demilitarized zone shall be established on either side of the demarcation line, to a width of not more than 5 Kms. from it, to act as a buffer zone and avoid any incidents which might result in the resumption of hostilities.
Article 2
The period within which the movement of all the forces of either party into its regrouping zone on either side of the provisional military demarcation line shall be completed shall not exceed three hundred (300) days from the date of the present Agreement's entry into force.
Article 3
When the provisional military demarcation line coincides with a waterway, the waters of such waterway shall be open to civil navigation by both parties wherever one bank is controlled by one party and the other bank by the other party. The Joint Commission shall establish rules of navigation for the stretch of waterway in question. The merchant shipping and other civilian craft of each party shall have unrestricted access to theland under its military control.
Article 4
The provisional military demarcation line between the two final regrouping zones is extended into the territorial waters by a line perpendicular to the general line of the coast. All coastal islands north of thisboundary shall be evacuated by the armed forces of the French Union, and all islands south of it shall be evacuated by the forces of the People's Army of Viet-Nam.
Article 5
To avoid any incidents which might result in the resumption of hostilities, all military forces, supplies and equipment shall be withdrawn from the demilitarized zone within twenty-five (25) days of the present Agreement's entry into force.
Article 6
No person, military or civilian, shall be permitted to cross the provisional military demarcation line unless specifically authorized to do so by the Joint Commission.
Article 7
No person, military or civilian, shall be permitted to enter the demilitarized zone except persons concerned with the conduct of civil administration and relief andpersons specifically authorized to enter by the Joint Commission.
Article 8
Civil administration and relief in the demilitarized zone on either side of the provisional military demarcation line shall be the responsibility of the Commanders-in-Chief of the two parties in their respective zones. The number of persons, military or civilian, from each side who are permitted to enter the demilitarized zone for the conduct of civil administration and relief shall be determined by the respective Commanders, but in no case shall the total number authorized by either side exceed at any one time a figure to be determined by the Trung Gia military Commissionor by the Joint Commission. The number of civil police and the arms to be carried by them shall be determined by the Joint Commission. No one else shall carry arms unless specifically authorized to do so by the Joint Commission.Article 9Nothing contained in this chapter shall be construed as limiting the complete freedom of movement, into, out of or within the demilitarized zone, of the Joint Commission, its joint groups, the International Commission to be set up as indicated below, its inspection teams and any other persons, supplies or equipment specifically authorized to enter the demilitarized zone by the Joint Commission. Freedom of movement shall be permitted across the territory under the military control of either side over any road or waterway which has to be taken between points within the demilitarized zone when such points are not connected by roads or waterways lying completely within the demilitarized zone.
Agreement on the Cessation of Hostilities in Viet-Nam
20 July 1954 CHAPTER I
Provisional Military Demarcation Line and Demilitarized Zone
Article 1
A provisional military demarcation line shall be fixed, on either sideof which the forces of the two parties shall be regrouped after their withdrawal, the forces of the People's Army of Viet-Nam to the north of the line and the forces of the French Union to the south.
The provisional military demarcation line is fixed as shown on the map attached (see Map No. 1). It is also agreed that a demilitarized zone shall be established on either side of the demarcation line, to a width of not more than 5 Kms. from it, to act as a buffer zone and avoid any incidents which might result in the resumption of hostilities.
Article 2
The period within which the movement of all the forces of either party into its regrouping zone on either side of the provisional military demarcation line shall be completed shall not exceed three hundred (300) days from the date of the present Agreement's entry into force.
Article 3
When the provisional military demarcation line coincides with a waterway, the waters of such waterway shall be open to civil navigation by both parties wherever one bank is controlled by one party and the other bank by the other party. The Joint Commission shall establish rules of navigation for the stretch of waterway in question. The merchant shipping and other civilian craft of each party shall have unrestricted access to theland under its military control.
Article 4
The provisional military demarcation line between the two final regrouping zones is extended into the territorial waters by a line perpendicular to the general line of the coast. All coastal islands north of thisboundary shall be evacuated by the armed forces of the French Union, and all islands south of it shall be evacuated by the forces of the People's Army of Viet-Nam.
Article 5
To avoid any incidents which might result in the resumption of hostilities, all military forces, supplies and equipment shall be withdrawn from the demilitarized zone within twenty-five (25) days of the present Agreement's entry into force.
Article 6
No person, military or civilian, shall be permitted to cross the provisional military demarcation line unless specifically authorized to do so by the Joint Commission.
Article 7
No person, military or civilian, shall be permitted to enter the demilitarized zone except persons concerned with the conduct of civil administration and relief andpersons specifically authorized to enter by the Joint Commission.
Article 8
Civil administration and relief in the demilitarized zone on either side of the provisional military demarcation line shall be the responsibility of the Commanders-in-Chief of the two parties in their respective zones. The number of persons, military or civilian, from each side who are permitted to enter the demilitarized zone for the conduct of civil administration and relief shall be determined by the respective Commanders, but in no case shall the total number authorized by either side exceed at any one time a figure to be determined by the Trung Gia military Commissionor by the Joint Commission. The number of civil police and the arms to be carried by them shall be determined by the Joint Commission. No one else shall carry arms unless specifically authorized to do so by the Joint Commission.Article 9Nothing contained in this chapter shall be construed as limiting the complete freedom of movement, into, out of or within the demilitarized zone, of the Joint Commission, its joint groups, the International Commission to be set up as indicated below, its inspection teams and any other persons, supplies or equipment specifically authorized to enter the demilitarized zone by the Joint Commission. Freedom of movement shall be permitted across the territory under the military control of either side over any road or waterway which has to be taken between points within the demilitarized zone when such points are not connected by roads or waterways lying completely within the demilitarized zone.
...
Read more:
----
Cái chết của Ông Long (Trung Tá Cảnh Sát QG Nguyễn Văn Long)..
Cái chết của Ông Long (Trung Tá Cảnh Sát QG Nguyễn Văn Long)..
Sent: Thursday, April 30, 2020, 04:45:16 AM PDT
Subject:
[BTGVQHVN-2] Fw: Cái chết của Ông Long (Trung Tá Cảnh Sát QG Nguyễn Văn
Long).. [1 Attachment] Dưới chân tượng đài của Thủy quân Lục chiến,
xác một người Cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói.. Người
Sĩ quan Cảnh sát đeo lon Trung tá. Ông mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi
ngực in chữ Long. Trung tá Cảnh sát Long đã tự sát ở đây, Cộng sản để
mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp quay
rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm
Trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người không khóc thì mắt đỏ hoe,
chớp nhanh.
Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tiểu sử Trung Tá Nguyễn văn Long.
Qua
nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà chúng tôi có dịp đọc
trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu sót, nếu không
muốn nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta muốn biết về Trung
Tá Long. Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ túc cho những thiếu sót
đó không ai khác hơn là cựu Trung Tá Nguyễn An Vinh, nguyên Chỉ Huy
Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Đà Nẳng, người đã có thời gian dài
được gần gũi với Trung Tá Long, trong phạm vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến
ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Kính mời quý vị xem bài của cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn An Vinh.
Sau
chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia
trải qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên
Huế, hoạt động ngành An ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng
chưa đầy 3 năm mà đã thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại
chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ
sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang
tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An ninh trật tự hoàn toàn suy
sụp.
Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng
I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn
Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập
tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt động của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc
Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng thời bổ nhiệm Quận Trưởng
Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng. Quận Trưởng
Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người đầu
tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài.
Ðể mau chóng ổn định nhân-sự cũng như hoạt động, Ông cho lệnh di chuyển
Nha CSQG từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một
tháng để thu xếp gia-đình..
Trong vòng một tháng
đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định việc nhà cửa và
chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Long, lúc ấy vừa được bổ
nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay hoay
chưa kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm
xoay sở nữa mà đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai :
Thấy
có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố Đà
Nẵng, Ông dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành
của một Công Sở. Ðó là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không
nước.
Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm
thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua
đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ chối nhất định không lấy, nói
thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả lại.
Câu
chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở.
Một hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn,
tôi kể Ông nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói :
tính
của Long là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên
Bang. Ðó là một người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà
nghèo…”. Từ lúc đó cho đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông
lặng lẽ, dường như có điều tính toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài
đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm đã thấy có điện nước. Hỏi ra
thì biết trong lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới bắt cho 2 bóng đèn và
2 lỗ cắm điện, một vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không cho biết ai
sai tới. Tôi biết ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc. Biết
Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh luôn..
Liền
sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà
Long có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn
cười nhìn về phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp
được thuộc cấp một việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông
quảng đại, kín đáo và chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc
lớn, không cần cho ai biết.
Dạo ấy, vì cơ sở mới
dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng không có tư dinh
phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường Bạch Ðằng.
Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều viên
chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai,
Ông gọi tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết
nhiều người và luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều
giờ với tôi, bàn về đủ mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới
đất, không dính dấp gì tới công vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi
nhắc lại chuyện Trung Tá Long và hỏi Ông lý do không cho Long biết việc
Ông can thiệp bắt điện nước vào nhà. Ông cườì rồi từ từ kể. Sau đây là
những gì Ông Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn Văn Long:
Tôi
biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả (tiếng thông dụng miền Trung
có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả
nổi tiếng1à siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không
đến nỗi tệ nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng
lộc phi nghĩa nên thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước
năm 1963 Giả cũng có một căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng
Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để
lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm, Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền
Trung do Phan Quang Ðông điều tra khai thác. Trong thời gian bị ngưng
chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà này để đong
gạo cho gia đình…
Giả sống rất chừng mực, lương
thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng không muốn xoay xở bậy bạ.
Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng, không hề muốn nhờ vả ai.
Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều này giải thích được
tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho gia
đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn…
Là
viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có khá nhiều
cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có khi còn quyết
liệt từ chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với đồng lương
của một công chức.
Giả bị bắt giam trong vụ
Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật
đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc nhiệm điều tra tội ác
và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều người cứ tưởng
dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng trái với mọi suy đoán, Long
hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không
thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới
chạy chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật
khuya mớí lạch cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình theo đạo Công
Giáo, nhà thuê ngay kế bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế. Nhà Long cửa đóng then
cài. Long không tiếp bất cứ ai.
Năm 1965, Long
đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng dọc theo Nam
Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị. Nhận việc chưa bao
lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa cho Giả một phong bì
đầy tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ trước, đây là
số tiền bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật
phí giao tế. Giả đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám
léng phéng chuyện tiền nong lem nhem với Long…”
Kể
đến đây Ông Giám Ðốc cười thành tiếng và nói đùa : “…Nếu Long chịu nhận
vàì ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi đường
Duy Tân. Nên nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh di chuyển từ
Quảng Trị vào Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải ở
bụi ở đường thì thế gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có
người thứ hai. Bổ nhiệm Long vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi
yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó chịu không vui đấy…”
Khi
tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung, Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có
thật mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan
Quang Ðông là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc
hoạt động vùng Thanh Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn
đề nội chính và an ninh quốc nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp
lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ
gián điệp thì Ðông cũng bị giết.
Hình như Long
biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân Vận Ðộng
Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long nói:
“…chuyện
Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá nhiều áp
lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên buộc… Ông
Giám Ðốc kết luận :…Long khắt khe sắt thép với chính mình nhưng khoan
dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ vừa mới
giam giữ mình…”
>>
>>
Năm 1970, tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra
Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão
lụt Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như
trút nước. Sóng biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố
ngập nước quá đầu gối. Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình
thành một vùng nước mênh mông. Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu
tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa
Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng cây. Từ tầm xa nhìn tới, toàn
khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác ít nóc nhà nhấp nhô theo
sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy Cành Sát Quốc Gia
huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng dụng thêm một
số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an toàn, lúc
ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh
Ðường Họ Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.
>>
>>
Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở
vào một khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc
nào. Cả gia-đình đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên
một cái chõng tre, tay cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà,
không chịu đi đâu hết. Tôi nghe mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời
sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào
và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ bắt điện nước cho Long.
>>
>>
Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện
với Long. Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi
không sao đâu. Sau một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải
viện dẫn lý do an ninh cũng như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng
bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.
>>
>>
Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi điện
thoại cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà
chỉ có mấy tấm ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần
này tôi xin nghỉ mấy ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay.Tôi bái
phục cái thái độ bình tâm giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết
định phải ra tận nơi coi cho biết. Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay
bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi
hết hồn.
>>
>>
Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm
mọi thứ tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc
khác nhau. Nhà nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ
về từ những vùng quê Quảng Nam mất an ninh. Giây điện và giây phơi áo
quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của Cảnh Sát
Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng
Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt Plastic
chết banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải
đưa Ông vào thành phố.
>>
>>
Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông
Long cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi
lái xe đưa Ông đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không
quyết định, viện dẫn nhiều lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm
trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng
tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi nói câu đó, tôi nghĩ đến khu
đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy Trưởng số 37 Nguyễn Thị
Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường rào Trường Nam Tiểu Học, có
thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông. Ông chịu liền nhưng còn bán tín
bán nghi.. Ðể xác nhận không phải chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một
trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây
ván thứ tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và
bắt tay tôi vui vẻ, nói lời cám ơn.
Không chờ
đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả gần
chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong,
điện nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần
tôi cũng vui không ít.
Những ngày tiếp theo,
tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra mới biết : thấy
tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào mặt tiền coi
cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế thải ở
đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài khá
tươm tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của
Ông. Dọn vào nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ
nhiệm Chánh Sở Tư Pháp, tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông
yên tâm ở bên cạnh nhà tôi và tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát :
Nhà
Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp
sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu
mồ côi, anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa
hết. Nhà còn có thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo
làm lợi, cho đứa cháu mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi
heo nhiều người không tin, đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay
cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát mà lai có người dám nuôi heo. Ai
nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh gia-đình, cùng cái lý do chân thật và
tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản đối. Mấy đứa con nhỏ của tôi
cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang xem, cho heo ăn,
trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích, tôi cũng
vui. Bà Long lại càng vui hơn.
Ông Long dạy con
rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện gương trung
liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông thường
dặn con : dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông
thường nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái
đầu phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là
việc tay chân lao động.
>>
>>
Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và
thường dấm dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách,
khi thì mua bộ áo quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất.
Ông Long có mấy con đã trưởng thành. Hai anh đi Không quân, một Thiết
giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử
trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà tôi thường dặn dò phải cận thận
giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền cho các cháu cà phê. Những cử chỉ
thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như thế chỉ có các con và Bà Long biết,
Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu tính Ông Long rất tự ái và
không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân.
Trong
năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung
với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một
người bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn
nhà đằng sau , phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một
nhà phong thủy cho biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí
phong thủy tuyệt hảo, che chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao
kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng. Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại
chức lâu dài. Tôi không biết nhiều về phong thủy, cũng không hẳn tin.
Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế khi có cơ hội để giúp cho hai người bạn
mà tôi rất thương yêu và mến phục.
Sống bên nhà
tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin "ân huệ" cho
mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu.
Bà Long thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước
được ở đây mãi mãi... Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao
lâu thì Ðà-Nẵng thất thủ, cuối tháng Ba 75. Tai trời ách nước đổ sập
xuống, chúng tôi tan tác mỗi người một nơi.
Tôi
thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây
dùng tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi
gặp Ông Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng
Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay mỗi người một ngã. Tôi tìm cách
cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được
tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận
đận và kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như
có bổn phận phải tìm thêm tin tức của Long:
Ở
Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự
sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội,
sắc phục và cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không
có báo nào nói xác Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận
đã bị vùi dập ở một xó xỉnh nào.
Nhưng không.
Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà thương Grall
nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ căn cước
địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó mà
báo tin. Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi
vừa mới dọn vào ở chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không
phải chữ ký của Thiếu Tá Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên
tôi có chút suy nghĩ sao mà cái việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn
cước bọc nhựa năm xưa lại đưa đến một sự việc quá quan trọng như thế.
Cái căn cước có chữ ký của tôi đó không phải vì nhu-cầu mà chỉ vì chút
cảm tình, nhưng lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc xác của Long. Ðây
có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn thận của
Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn.
Ðà-nẵng
mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền vào
Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới Sài Gòn
ngày 17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người
em gái tên Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây
nhân viên Bệnh Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ
dàng, chỉ vẽ tận tâm chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người
chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử
tế đến độ làm các con cảm-động và ngạc nhiên.. Ngày chôn cất có ban hậu
sự Nhà Thương sắc phục và xe tang đàng hoàng, khoan thai đưa tiễn tới
Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thi hài được mai táng tại
Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn giáo. Có
Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt của
một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít
năm sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ
vợ và các con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ
Dòng Chúa Cứu Thế Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.
Ngày
mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều Tướng
Lãnh, Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân viên Dân Chính đã tự sát
tại nhiều nơi và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí bất
khuất không đầu hàng, không để cho thân rơi vào tay giặc. Nhưng cái chết
của Trung Tá Nguyễn văn Long mới được cả thế giới biết đến mau nhất,
gây xúc động mạnh nhất. Long đã chọn cách thế, giờ giấc cho cái chết có
mục đích tại một địa điểm không thể có nơi nào thích hợp hơn. Trước Tòa
Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài Chiến Sĩ là nơi biểu tương Trái Tim
đang thoi thóp của Miền Nam. Ông đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập
trái tim Ông. Ông dâng hiến máu tươi và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần
phải luận bàn dông dài, cả thế giới cùng công nhận Long đã bình tĩnh sửa
soạn cho cái chết từng chi-tiết. Long mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề,
thẻ căn cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long đứng nghiêm,
chào kính Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt
khoát và chính xác, Long anh dũng đền ơn nước. Ðã một thời sống gần và
làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh thời, kính phục Long khi đã
chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết của Long là một cái chết bất tử !
25/03/2017.
Nguyễn An Vinh