Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2025

78 Năm Nghĩ về Kỷ Niệm Tạ Ơn Trường Mẹ

78 Năm Nghĩ về Kỷ Niệm Tạ Ơn Trường Mẹ

Thoáng nghe ai đó nhắc tới Ngày Tạ ơn năm nay 2025 vào ngày Thứ Năm 27/11/2025, tôi chợt thấy chạnh lòng. Từ khi đến Mỹ mỗi năm đến mùa Lễ Thanksgiving, tôi chỉ biết nghĩ nhiều đến một Thanksgiving theo tập tục của người Mỹ nhắc tôi nhớ về sự tạ ơn có liȇn quan giữa người da trắng di dân (Pilgrims=hành hương) đã thu hoạch mùa gặt hái tốt lành nhờ được sự giúp đỡ của người thổ dân qua mùa Ðông khắc nghiệt năm 1621 tại Plymouth, Massachusettes. Khi tôi nhìn lại mình trong tâm trí, chợt thấy một nỗi xót xa khi nhớ những ngày đầu tiȇn tôi bước qua cổng Trường Võ Bị đã được un đúc, giáo dục, nuôi dưỡng bằng biết bao khó nhọc của bao nhiȇu người và tình cảm thân thương dưới mái trường thân yȇu đó. Cuộc đời tôi đang giữa mùa Ðông khắc nghiệt 1968, khi chiến tranh tràn lan khắp mọi miền đất nước, khi tương lai tôi là vô định, bị cuốn hút trong một lý tưởng, nhưng lạc lối. Mái trường Ðại Học Khoa Học Sài Gòn không còn là nơi dung thân cho tôi. Vì thế, tất cả những gì tôi đã học, rèn luyện được nơi Trường Mẹ là của cải quý báu đã nuôi dưỡng tâm trí tôi, nuôi sống tôi, gấp trăm vạn lần những của cải thu hoạch trong mùa Ðông giá lạnh năm 1621 cho qua cơn đói rét, vậy mà rồi mỗi mùa Thanksgiving cứ trôi qua. Hôm nay tôi thử tìm cách đi ngược giòng lịch sử vào những ngày đầu tiȇn của Trường Mẹ, 1/12/1948, và muốn biết ai đã đứng sau lưng Ngôi Trường ấy, Trường Sĩ Quan Hiện dịch Huế, hay Trường Sĩ Quan Việt Nam tại Ðập Ðá, Huế, Việt Nam qua một bài viết đăng trȇn Fb ngày 4/6/2024 của tác giả Lȇ Hồng Minh, và rồi tôi sẽ tìm hiểu tiếp trong những bài tiếp theo 78 Năm Nghĩ về Kỷ Niệm. 

Ðối với tôi, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam chỉ là một copy, một copy có thể mất và có thể có một copy mới bởi vì tâm trí con người sẽ có đủ trí tuệ để tạo ra một copy mới đẹp hơn nhiều.

Sau cùng, ai đã có một suy nghĩ vượt thời gian trước tôi? Như bài viết của Lȇ Hồng Minh sau đây:

Bài này tác giả Lȇ Hồng Minh tựa đề “75 NĂM TRƯỚC Ở HUẾ TỪNG CÓ TRƯỜNG QUÂN SỰ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM!”

Lời tôi ghi chú: Thật ra Trường Quân Sự đầu tiȇn tại Ðập Ðá, Huế mở ra ngày 1/12/1948 không phải là trường quân sự đầu tiȇn mà là Khóa Liȇn Quân Viễn Ðông khai giảng ngày 15/7/1946 tại Ðà Lạt.

Bài viết của Lȇ Hồng Minh được tôi cho font chữ in nghiȇng. các note màu đỏ là sai.

---

 

Lê Hồng Minh

June 4, 2024 ·

75 NĂM TRƯỚC Ở HUẾ TỪNG CÓ TRƯỜNG QUÂN SỰ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM!

Thông tin này tôi biết được đã lâu nhưng rồi quên không để ý dù rất bất ngờ khi biết tận năm 1948, ở xứ Huế thơ mộng, người ta đã đặt ở đó một trường đào tạo ra các sĩ quan.

Lý đó gì mà ở mảnh đất toàn áo dài và nón lá hiền thục lại tồn tại một trường dạy… đánh trận? Tại sao rất ít bạn bè tôi, cả những người ở xung quanh và ngay đối diện địa điểm này lại không quan tâm cà chẳng có chút thông tin gì về nơi ấy? Điều đó thôi thúc tôi cố tìm hiểu về nó, vì địa danh này cũng gắn bó ít nhiều với thời niên thiếu của mình.

“SĨ QUAN ĐẬP ĐÁ”
Người Huế cỡ U60 như tụi tôi đổ lên nói tới Đập Đá là biết luôn nhưng hỏi có biết rằng nơi đây đã có “Trường sĩ quan Đập Đá” hay không, nhiều người nói "chịu"!

Kỳ thật, đã có một trường sĩ quan hiện dịch (tạm hiểu là chế độ quân dịch bắt buộc) nhằm đào tạo các sĩ quan nòng cốt cho quân đội, có tên là “Trường sĩ quan Việt Nam” hay còn gọi là “Trường sĩ quan Huế” hoặc “Trường sĩ quan Đập Đá”, được thành lập ngày 1/12/1948 tại hữu ngạn sông Hương, với sự hỗ trợ của quân đội Pháp.

Hai năm sau, trường này chuyển về Đà Lạt vì ở đó có đầy đủ các điều kiện về khí hậu và thực tế huấn luyện để rèn luyện các quân nhân. Trường được đổi tên thành “Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt”, 
tọa lạc tại đồi 1515, cách hồ Than Thở không xa.

KÝ ỨC 75 NĂM
Câu hỏi vì sao đất Huế thơ mộng lại được chọn làm vị trí để đặt cơ sở đào tạo sĩ quan này, có thể lý giải: địa điểm trường nằm ngay giữa thành phố Huế rất thuận lợi, vì từ các nơi có thể đến trường bằng cả 3 loại phương tiện: (1) đường bộ: dùng xe hơi theo Quốc lộ 1 xuyên Việt Nam, hoặc dùng tàu lửa theo tuyến đường sắt xuyên Việt chạy song song với Quốc lộ 1; (2) đường hàng không: đáp máy bay xuống phi trường Phú Bài cách Huế khoảng hơn chục cây số; và (3) đường thủy: dùng tàu thủy cập cảng Đà Nẵng rồi dùng xe hơi chạy theo Quốc lộ 1 băng qua đèo Hải Vân tới Huế. Có lẽ sau này người ta đã nhận ra một số bất cập khi đặt trường ở Huế chăng, nên mới chỉ sau 2 năm tồn tại ở đây, trường này đã dời đi!

Ở thời điểm đó, việc xây dựng trường được giao cho Toà Đại biểu chính phủ tại miền Trung (do ông Phan Văn Giáo đứng đầu - sau này ông Giáo làm tới Phó Thủ tướng, Thủ hiến miền Trung dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại) phối hợp với Bộ Chỉ huy Lực lượng Việt Binh Đoàn (do đại úy Nguyễn Ngọc Lễ làm chỉ huy trưởng - sau ông Lễ lên tướng, đứng đầu ngành an ninh, tình báo quốc gia, tư lệnh một quân đoàn và vùng chiến thuật thời Việt Nam Cộng hòa)
 thực hiện, bằng cách chỉnh trang lại một ngôi biệt thự khá rộng (ngang 400m và sâu 200m), nằm trên đường Lê Lợi [đường này có rất sớm từ đầu thế kỷ 19, cùng thời với việc các trại thủy sư nhà Nguyễn đóng ở bờ Nam sông Hương. Từ 1943 trở về trước, người Pháp đặt tên là đường Jules Ferry (Rue Jules Ferry), còn dân gian thì gọi là đường Thủy sư; giữa năm 1943, đoạn từ cầu Trường Tiền đến Đập Đá được cắt ra đặt tên đường Graffeuil (Rue Gaffeuil); đoạn còn lại vẫn mang tên Jules Ferry] cách cầu Tràng Tiền mấy trăm mét, sát bên bờ sông Hương hướng từ Huế đi Phú Vang, nhìn qua bên kia sông Hương là ngay chợ Đông Ba. Thật kỳ lạ, có người cho biết địa điểm này là Saint Benoit (tên một quận ở vùng Réunion thuộc Pháp). Có lẽ một trong những sĩ quan Pháp từng tham gia giảng dạy ở đây thấy vùng Đập Đá này có nét tương đồng gì đó với địa danh Saint Benoit tận Réunion chăng? Với địa danh này, lại có thêm một sự trùng hợp thú vị nữa, đó là năm 1951 khi chuyển vào Đà Lạt, trường lại cũng được đặt bên cạnh hồ… có tên là Saint Bennoit luôn [mà nhiều người còn nhớ tới địa danh Chi Lăng thời Pháp gọi là “Cite Saint Benoit” ngay trước hồ Mê Linh - hồ Mê Linh được đào vào những năm đầu thập niên 20 thế kỷ trước với tên gọi là Cité Saint Benoit, là một trong những hồ chứa nước nằm trong chuỗi hồ nhân tạo với hơn chục hồ lớn nhỏ].

"Trường quân sự Đập Đá", theo mô tả, mặt tiền sát lề phố là một dãy tường gạch cao chừng 2m, ở giữa có cổng rộng chừng 8m, phía trên có gắn bảng hiệu hình vòng cung sơn màu xanh lá cây trên kẻ chữ “Ecole Des Officiers Vietnamiens” (nghĩa là “Trường sĩ quan Việt Nam”) màu vàng. Có tài liệu nói trường này được ví như “Saint-Cyr Việt Nam” - "École Spéciale Militaire De Saint-Cyr" thường được gọi là Saint Cyr - học viện lục quân danh giá của Pháp.

Lại nói tiếp về trường này.

Hông bên trái trường hướng Tây sát với các nhà dân, được ngăn bằng hàng rào kẽm gai cao 2m đan ô vuông dày 20cm từ lề đường phố thẳng tuốt xuống tận bờ sông Hương, và có một cổng phụ cho xe hơi ra vô. Hông bên phải ở hướng Đông có một dãy tường đá dày 40cm cao hơn 1m ngăn cách với khu biệt thự rất rộng kế bên khi đó cũng đang bỏ trống không người ở. Sau khi trường này dời về Đà Lạt, cơ sở cũ này cùng với biệt thự bên cạnh được phá đi để xây “Trường Võ bị Địa phương” (École Militaire Régionale) thuộc Quân khu 2, cũng đào tạo các hạ sĩ quan.

Rồi mấy năm sau, “Trường Võ bị Địa phương” này lại bị giải tán, nơi này được giao cho Quân vụ Thị trấn Huế sử dụng làm câu lạc bộ và nhà ở, nhà khách cho các sĩ quan độc thân.

Thời gian 75 năm trôi qua đã xóa sạch sẽ không còn một dấu tích gì của ngôi trường ấy, song vẫn còn có các ký ức của những người từng theo học ở đây. Họ đều nhớ rằng bước qua cổng chính, bên trái là sân rộng có cột cờ cao. Phía sau sân ở bên trái là ngôi nhà ngói khoảng 400m2 dùng làm trụ sở của Ban Giám đốc trường gồm văn phòng của vị chỉ huy trưởng, giám đốc huấn luyện, các văn phòng của các huấn luyện viên và phụ tá.

Phía bên phải sân sau cổng vào là trạm kiểm soát gồm văn phòng sĩ quan trực, phòng y tế và nơi ngủ của lực lượng bảo vệ. Kế đến là một dãy nhà (dài khoảng 50m rộng 8m) làm phòng ăn tập thể, đồng thời cũng dùng làm giảng đường lớn. Bên trong nhà ăn, ngoài lối đi rộng hơn 1m ở chính giữa, suốt chiều dài của nhà có kê 2 dãy bàn dài bề ngang 1m với những dãy ghế dài không lưng tựa dọc 2 bên để làm bàn ăn, và bàn viết khi cả khoá tập trung nghe thuyết trình hoặc làm bài thi.

Ngay sau lưng trạm kiểm soát và nhà ăn, có 3 dãy nhà khác nhỏ và ngắn hơn dùng làm phòng học và sinh hoạt riêng mà bên trong y như một lớp học vậy. Suốt bề dài căn nhà, kê 2 dãy bàn học trò loại bàn liền ghế cho 2 người ngồi chung. Nơi đầu phòng có một bảng đen lớn. Tất cả các dãy nhà đều lợp mái bằng gốc rạ rất dày, tường chung quanh là những phên liếp bằng nứa đan. Mỗi nhà có 2 cửa ra vào tại 2 đầu nhà, dọc hai bên nhà là 2 dãy cửa sổ rộng có cánh liếp nâng lên hạ xuống được để thông thoáng gió và giúp cho ánh sáng lọt vào nhà những khi không bật đèn.

Phía trong cùng của khu đất, dọc theo bờ sông Hương có 2 dãy nhà dài nối tiếp nhau dùng làm nơi ngủ, xây tường gạch mái lợp ngói, bề cao từ nền đến nóc khoảng 5m không có lớp trần che cản sức nóng từ nóc nhà phà xuống, nên mùa hè rất nóng và ngược lại mùa đông rất lạnh. Dãy phía bên trái được ngăn đôi, một nửa dùng làm kho còn nửa kia dành làm phòng ngủ chung cho khoá sinh người từ miền Nam. Dãy bên phải, nửa bên trái dành cho khoá sinh người miền Trung và nửa bên phải dành cho khoá sinh từ miền Bắc vô. Dọc theo chiều dài nhà ngủ, kê 2 dãy giường cá nhân bằng gỗ có cọc khung gỗ để giăng mùng chống muỗi. Giường được kê từng cặp sát bên nhau và một đầu sát tường. Mỗi giường có một chiếu bằng cói, một nệm nằm nhồi cỏ khô và bông gòn có thể gập đôi lại được.

Từ đầu nhà ngủ ra đến bờ sông Hương có một con đường đất rộng khoảng 5m, cuối đường là một sàn gỗ dài rộng khoảng 25m2, cao hơn mặt nước sông chừng 30cm, dùng làm cầu bến tắm giặt, có thể thấy nước sông Hương trong vắt nhìn suốt tận đáy, ban đêm nhiều thuyển nhỏ đốt đuốc nơi đầu thuyền bơi dọc ven sông để người ngồi trên dùng cây chĩa đôi bằng sắt đâm xuống nước để bắt cá. Bên phải con đường xuống cầu bến tắm là nhà bếp và phía bên trái con đường nơi sát bên hàng rào gần bờ sông là nhà vệ sinh công cộng đủ cho cả trăm nguời “giải quyết” suốt ngày đêm.

BÂY GIỜ LÀ VỊ TRÍ NÀO?
Ban đầu khi mới tiếp cận với các tài liệu, tôi nghĩ vị trí này là bến tàu du lịch hiện nay (trước gọi là bến Tòa khâm - Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, nay là Trường Đại học Sư phạm Huế), vì dựa vô chi tiết nói trường này chỉ cách cầu Tràng Tiền chừng 200 mét, nhưng đối chiếu lại thì có lẽ không phải, dù tôi và bạn bè từng biết và từng tắm trên một cái cầu tàu bằng sắt (đã hoen rỉ) nằm dưới mực nước sông Hương, ngay trước thảm cỏ công viên đối diện Trường Đại học Sư phạm Huế bây giờ.

Cho rằng vị trí của trường này có thể nằm ngay nơi khách sạn Century Huế đang tọa lạc (xây dựng ở những năm 1990) thì cũng không phải, vì vị trí này chưa phải là Đập Đá, nơi chính xác là phải lối hơn 300m nữa mới tới.

Nhân đây nói thêm chút về Đập Đá. Đập Đá được người Pháp xây dựng từ năm 1917 với mục đích chặn dòng sông Như Ý (một chi lưu của sông Hương) để ngăn mặn phục vụ nông nghiệp cho các huyện Hương Thủy, Phú Vang và làm đường giao thông nối Huế và vùng Thuận An cũng như ngăn nước từ thượng nguồn sông Hương đổ về trong mùa mưa gây nên lũ lụt. Ngày trước ở Huế cứ qua tháng 7 âm lịch là bắt đầu mùa mưa lụt. Cứ mưa to to chút là người dân hỏi thăm dò nhau “nước tràn Đập Đá chưa”, nếu tràn thì người dân Huế hối hả chuẩn bị dọn lụt. Mùa mưa thì mỗi lần nghe nước tràn Đập Đá là khu vực Vỹ Dạ bị cô lập, không ai dám lội băng qua Đập Đá vì dòng nước chảy rất xiết. Còn học trò bọn tôi chỉ mong... lụt để được nghỉ học rồi đi xuống bên này của Đập Đá (góc Lê Lợi - Nguyễn Công Trứ) đứng nhìn dòng nước hung dữ và hóng hớt bất cứ chuyện gì. Các bạn tôi ở phía Vỹ Dạ bên kia Đập Đá rất nhiều, hồi đó có đứa liều lội qua Đập Đá khi nước còn xắp xắp mắt cá chân để về nhà, có đứa tìm cách đi đò, hoặc nước lớn không thể về được thì không biết về nhà ngả mô nữa, hoặc tìm nhà người quen mô bên ni mà xin ở lại, nhưng không biết bằng cách nào để báo cho người nhà ở bên kia Đập Đá biết mà đỡ lo?

Thật tình cờ, bác sĩ Hung Phan Van - một người bạn Huế từ thuở ấu thơ nay ở tận đất mũi Cà Mau, đã nhắc thêm cho tôi vài chi tiết liên quan đến vị trí này, do nhớ được chút ít ký ức năm nào.

Dường như sau 1975, vị trí này là doanh trại bộ đội, còn trước 1975 có người gọi đây là “nhà đoan” - khu vực của các cơ quan về hải quan hay “trại Tây Kết” nảo đó (?). Sau giai đoạn do bộ đội quản lý, nơi này có lúc đã trở thành chỗ chiếu video phim bộ Hongkong và Ấn Độ với các bộ phim thịnh hành khi ấy như “Mặt nạ quỷ”, “Vợ chồng câm điếc”, sau này còn có thêm mấy phim của Tần Hán, Lưu Tuyết Hoa đóng nữa mà quên pà tên rồi. Bạn còn nhắc rằng vị trí này (ở ngay trước nhà bạn "Banh" chung học cấp 3 Quốc Học và nhà mệ Đội) hay được dùng để chiếu phim bãi, lúc đó phía dưới bờ sông hay có mấy chiếc tàu hút bùn đậu, mà đám con nít xóm Lê Lợi thường xuống tắm ở đó.

Xâu chuỗi các chi tiết lại, thì chắc chắn, vị trí của ngôi trường ngày xưa ấy, chính là là phần đất mà cả 2 khách sạn Century và Hương Giang đang nằm trên đó hiên giờ!

Cao nhân nào có thêm thông tin gì về nơi này, vui lòng chỉ giáo, xin được lắng nghe.

Vì đời cơ bản là vui dù thông tin cơ bản không có nhiều!

Chú thích ảnh: tòa nhà màu trắng phía bên trái hình là khách sạn Hương Giang, rất có thể trước đây là phần đất mà một trường quân sự đã đóng trên đó! Còn "con đường" chạy ngang hình, chính là Đập Đá (Huế), nơi lưu giữ bao kỷ niệm ấu thơ của tôi và bạn bè Tho Le Bùi Cẩm Vân Thuý Vân Bùi Võ Tiến Han Pro Nguyen Luong Nguyễn Đức Tính Khanh Vo 

See less

 

Note của tôi (Hoàng Hoa) Trường Sĩ Quan Hiện Dịch Huế dời vào Ðà Lạt 19/8/1950 và mở khóa thứ ba ngày 1/10/1950