Thứ Ba, 3 tháng 10, 2023

Cuộc Gặp Gỡ Bất Ngờ với NT Nguyễn Văn Dục K17 tại Trại Tù Bù Loi

 

Cuộc Gặp Gỡ Bất Ngờ với NT Nguyễn Văn Dục K17 tại Trại Tù Bù Loi

Ngày 17 tháng 5, 1975, sau ngày miền Nam lọt vào tay giặc, sau khi khi trình diện Ban Quân Quản cộng sản tôi đi theo mẹ tôi đi làm rẫy tại La Ngà (cây số 102,) hai hôm sau (19/5/1975) tôi bị du kích VC bắt giải đi Bộ chỉ huy quân Bắc Việt tại một ngôi chùa bȇn cạnh hòn đá lớn tại Ðịnh Quán (cây số 113) để điều tra. Buổi chiều tối hôm đó, tay tôi vẫn đang bị cột du kích VC dẫn tôi đi giữa chợ Ðịnh Quán đến Trường Tiểu Học Ðịnh Quán và xiềng chân tôi tại đây với tội danh là một sĩ quan “ngụy.” Chân phải tôi mang một sợi dây “lòi tói” một đầu xích vào chân bằng một ổ khóa, đầu kia xích vào chân bàn học bằng một ổ khóa khác. Mỗi buổi sáng khi đi vệ sinh đầu lòi tói kia được mở ra, nhưng sợi dây lòi tói được quấn vào chân phải tôi với hai ổ khóa. Ngày 22 tháng 7, 1975, tôi được chuyển đến trại tập trung Lȇ Lợi, Long Khánh nguyȇn là Kho Quân Cụ của SÐ18/VNCH.

Năm 1977 tôi được chuyển lȇn Ðoàn 500 Phước Long Sông Bé. Ðoàn 500 là một vị trí núi rừng hoang vu nằm về phía Bắc cầu sông Bé và nằm trọn trong mạn phải (hữu ngạn) thượng nguồn sông Bé, cây rừng chủ yếu là tre nứa mọc dọc theo hai bȇn bờ sông Bé,. Từ Ðoàn 500 ra đi phải qua cầu sông Bé, ngày đó gọi là cầu 10T (10 tấn,) nơi mà vào những buổi trưa sau khi đi cắt tranh, hay đốn tre, hay nhổ khoai mì tôi thường xuống chân cầu xi măng ngồi nghỉ mệt hay ăn trưa với những củ khoai mì luộc hay nướng. Thời gian này là lúc gian khổ nhất. Có nhiều khi tôi không tin sẽ có một ngày về. Nhưng tôi tin vào thuyết định mệnh và sự sinh tồn vì thế mặc dù đói rét và bệnh tật tôi luôn luôn lạc quan, học hỏi và rèn luyện sức khoẻ. Sông Bé, nơi thượng nguồn của nó bề ngang sông khoảng 25m là một thử thách lớn nhất của tôi, vào mùa mưa nước từ nguồn xuống chảy trút cuồn cuộn dâng cao như thác đỗ, tôi vẫn không cảm thấy sợ hãi vì tôi đã luyện tập bơi lội sang bȇn kia sông mỗi khi đi tắm. Vì vậy trong một lần cháy rừng, tôi đã bơi dọc theo sông về trại, vì chiếc bè di tản đã quá đầy không còn chỗ cho tôi. Tôi còn nhớ những tảng đá hai bȇn bờ sông Bé đã gây cho tôi nổi khiếp sợ nhìn như những con quái thú. Những ngày ít mưa là những ngày đi rừng chặt tre, nứa, nghe tiếng khỉ hú và trȇu chọc, nhiều khi một thân một mình giữa rừng hoang vắng tôi đã nén tất cả đau đớn trong lòng chỉ biết rằng phải có một ngày về và phải còn sự sống cho tôi làm một điều gì có ích cho những người thân với chút lý tưởng còn sót lại. Dấu vết của chiếc cầu 10T mà chúng tôi gọi là cầu 10 tấn bắt ngang thượng nguồn Sông Bé, nơi mỗi trưa, tôi dừng chân giở lon guigoz và ăn những lát khoai mì khô hay chút cơm dưới chân cầu bằng xi măng và ngắm dòng sông nước chảy chầm chậm, ngày nay vẫn còn. Thời gian này gian khổ nhất, đói, cực nhọc, bị muỗi mòng, vắt đỉa hút máu, người tôi chỉ như bộ xương biết đi.


Từ Ðoàn 500 ra đi phải qua cầu sông Bé, ngày đó gọi là cầu 10T (10 tấn,) 


Cuối năm 1978, có cuộc chuyển trại tù cải tạo từ Ðoàn 500 Phước Long đến trại tù Bù Loi, Phước Long. Chặng đường dài khoảng 80km, các tù nhân cải tạo gồm các sĩ quan QLVNCH phải gồng gánh mang theo tất cả vật dụng cá nhân gồm lương khô được thăm nuôi, quần áo, nồi niȇu, lon guigoz, dao rựa, nước uống ước lượng 15kgs cho một người. Khởi hành từ sáng sớm từ Ðoàn 500 đi trȇn con đường đất đỏ lȇn dốc xuống dốc đến khoảng 6 giờ tối thì đến láng trại Bù Loi, một khu vực nhỏ gồm những láng trại cho các tù nhân cải tạo gần với Sóc Bom Bo và nằm giữa Sóc này với chợ Minh Hưng.

Gồng gánh trȇn vai, người tôi mặc chiếc áo vải kaki lính đầy ắp mãnh vá bằng vải bao cát, trȇn đầu quấn cái khăn nhỏ, chân mang đôi dép nhựa mà có lúc phải cởi bỏ ra vì mồ hôi làm ẩm đôi chân không bám vào dép được khi bước đi trȇn mặt đường đầy bụi đất đỏ cao nguyȇn.

Lộ trình di chuyển không được cho biết, nhưng chúng tôi phải dậy sớm ăn uống no mang theo nước uống rồi phải rời trại Ðoàn 500 vừa khi có lệnh báo.


Cuộc chuyển trại tù cải tạo từ Ðoàn 500 Phước Long đến trại tù Bù Loi, Phước Long.

Lộ trình di chuyển dài khoảng 80km mới đến Bù Loi, rồi rẽ phải, chúng tôi men theo con đường mòn nhỏ trong rừng dẫn chúng tôi đến một con suối nhỏ, qua một túp lều là lò rèn thì tới khu láng trại với khoảng 2 hay 3 gian mái tranh, vách ngăn bằng phȇn nứa trông thật hiu quạnh và xơ xác thì trời đã chập choạng tối. Bước vào trong chúng tôi nhìn thấy những chiếc chõng phȇn tre đan kết bằng thân cây nứa. Chúng tôi bỏ xuống hành trang và chuẫn bị lon guigoz luộc những củ khoai mì mang theo để ăn. Tôi vẫn còn nhớ, phía sau láng trại còn những cây ớt hiểm mà tôi nghỉ là của những người Thượng đã trồng trước đây. Khu láng trại này với những chiếc chõng tre đã chứng tỏ đã từng có người tù cải tạo ở và họ đã ra đi đâu bỏ trống lại nơi này cho chúng tôi đến.

Sau này tôi mới nghe từ những người cũ còn ở lại cho biết có một toán tù cải tạo vừa rời bỏ nơi đây đi đâu tôi không biết trong đó có anh Phạm Minh Tâm K25, người từng cùng tôi dự tranh đi học Trường Võ Bị West Point năm 1970, một người tù cải tạo nữa là NT Nguyễn Trọng Tường K24 cũng đã rời trại này trước khi tôi đến, nhưng đặc biệt nhất, NT Nguyễn Văn Dục K17 vẫn còn ở lại trại Bù Loi này, nhưng không cùng láng trại với tôi.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét