Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Sách Trắng Biên Giới Việt Trung (1)– Sông Hồng


Nhật Ký
Trên Biên Giới Việt-Trung
1885-1887
Tác giả Dr. P. Neis (1888)
Sơ lược tác phẩm
 Nhật Ký Trên Biên Giới Việt-Trung 1885-1887 (NKTBGVT) in nǎm 2002 là ấn bản Việt ngữ lần đầu tiên do Sông Hồng www.viettrade.net dịch từ tác phẩm Anh ngữ The Sino-Vietnamese Border Demarcation 1885-1887 người dịch Dr. Walter E. J. Tips thuộc nhà xuất bản Sen Trắng in nǎm 1998 tại Thái Lan. Bản dịch Anh ngữ từ nguyên tác Pháp ngữ Sur Les Frontières du Tonkin 1885-1887 của Bác sĩ P. Neis in trong tuyển tập Le Tour du Monde Vol. 55, pp. 321-112, in nǎm 1888 tại Pháp.
     NKTBGVT là một tác phẩm vǎn học sử đặc biệt quan trọng. Nó là một áng vǎn chương lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đã mô tả bằng chứng cứ cụ thể việc hình thành đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa trong các nǎm 1885-1887. Chính tác phẩm cho chúng ta biết vì sao đường biên giới Việt-Trung được vẽ như thế và nó mô tả một cách khách quan chi tiết những sự ký kết hiệp định và những biến cố đã xãy ra trong gần suốt chiều dài biên giới. Nó cũng cho thấy những chi tiết quan trọng là những đầu mối những suy tư và tìm hiểu mới về các vấn đề biên giới Việt-Trung. Nó cũng chính là một bản báo cáo đặc biệt gồm 6 bản báo cáo nhỏ liên quan đến toàn biên giới. Tác phẩm còn có thể được xem là một tường trình đặc biệt quan trọng dẫn đến sự ký kết Hiệp Định Biên giới tại Bắc Kinh ngày 26 tháng 6 nǎm 1887.
      NKTBGVT là một tác phẩm vǎn học sử vì nó chính là một áng vǎn chương trữ tình, đầy kịch tính phiêu lưu và dân tộc tính Việt Nam do một người Pháp viết. Trong rất nhiều trường hợp Bác sĩ P. Neis đã nói về những tình cảm riêng tư của mình hoặc đôi lúc xen lẫn lòng yêu nước của những người An Nam, Bác sĩ P. Neis còn mô tả những chiều mưa trên biên giới, có khi nắng đẹp chan hòa, nhưng cũng có những đêm mưa như trút thác, giòng sông Hồng có lúc êm ái trôi, có lúc chảy xiết như thác đỗ, ở một số nơi tác giả còn mô tả cảnh sống nghèo khổ bình dị của các cư dân An Nam vùng biên giới. Ông cũng đã thể hiện một số nét nhân bản của một vị bác sĩ khi tỏ ra quan tâm đến sức khoẻ của các phu khuân vác người An Nam như ông đã viết: “Các dân quân người An Nam đã đến từ Châu thổ cũng không hữu ích trong lúc nhiệt độ thời tiết như thế này; họ ǎn mặc nhẹ, chỉ có một áo khoác che người như bộ đồ ngủ, chẳng bao lâu họ bị sốt và sưng phổi rất nhiều và trong lúc không có bác sĩ quân y, tôi đề nghị Thiếu tá Servière thiết lập một trạm quân y và cán đáng việc này trong khi công việc của tôi là một Ủy viên của Ủy ban Phân định Biên giới cho tôi có thì giờ. Ngoài ra, những bệnh nhân đặc biệt từ Lạng Sơn đến Thất Khê là các lao công khuân vác đi từ Lạng Sơn đến Thất Khê qua ngõ Ðồng Ðǎng để cung cấp tiếp tế cho quân trú phòng. Tôi đã chǎm sóc họ tới hết khả nǎng tôi, trong các cǎn lều trống tứ bề, trong đó có các kệ làm bằng tre được dành làm giường bệnh, nhưng tôi đã mất một số người trước cuộc tấn công của bệnh sốt cảm lạnh chết người này.[1] Nhiều lần Bác sĩ P. Neis còn nói về những nét đặc biệt của người Việt Nam vùng biên giới, những thói quen và cách sinh hoạt của họ giữa thời buổi Việt Nam bị Pháp xâm lǎng: “Làng An Nam Phaisam tọa lạc khoảng một cây số rưỡi cách cổng Trung Hoa Chima; chính tại đó chúng tôi phải thu xếp cho chúng tôi trong các trại có hố chiến đấu Trung Hoa. Gần với cổng làng, một người trưởng lão An Nam, ông huyện truởng người có ảnh hưởng lớn trong vùng, dẫn theo khoảng hai mươi người dân quân trang bị khá nghèo nàn và đi sau một lá cờ của chính quyền bảo hộ, nền vàng có chiếc du thuyền Pháp.[2] Sau đó ông mô tả một vài người Man thuộc dân tộc Việt Nam ra sao: “Khi chúng tôi trở lại Phaisam, mưa đã ngừng và Vi-Van-Li mang đến cho chúng tôi vài người Man từ Mẫu Sơn đi kèm theo một người đàn bà.
         Những người thuộc bộ lạc núi này đã nhận sự thẩm quyền của người An Nam thì nhỏ con và thấp - người đàn bà chỉ khoảng 1 thước 40 - lực lưỡng, các bắp chân đã phát triển, vai rộng, mặt trông giống khuôn mặt người Thô, nhưng với chiếc mũi không cao và nước da nhạt hơn. Giống như người Thô họ đã sống trong các cǎn nhà dựng cột, nhưng luôn luôn bên trong dẫy núi. Người ta chỉ có thể tới họ bằng phương tiện những lối đi rất dốc: cũng như họ không có ngựa hay trâu; họ mang các khối nặng trên lưng trong những chiếc giỏ tương tự như người bộ lạc núi Ðông Dương, tức là, giữ trên lưng với hai ây đai luồn qua vai và chiếc đai thứ ba đi qua phía trước như cái đai đầu.[3]
 Nhật Ký Trên Biên Giới Việt-Trung (1885-1887)
Bản dịch Việt ngữ: Sông Hồng
viettrade_net@yahoo.com
 
 
Bottom of Form
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét