Ðặc San Ða Hiệu Số 127. Phát hành Tháng Giȇng 2024.
The Global Daily Watch and National Security
HỒ SƠ THỀM LỤC ÐỊA và BẢN ÐỒ VIỆT NAM CỘNG HÒA VAC-NORCAL ÐỆ TRÌNH LHQ 13/5/2009
- HỒ SƠ THỀM LỤC ÐỊA và BẢN ÐỒ VIỆT NAM CỘNG HÒA VAC-NORCAL ÐỆ TRÌNH LHQ 13/5/2009
- GENEVA AGREEMENT 1954
- PARIS AGREEMENT 1973
- FOREIGN RELATIONS US AND RVN 1969-1976
- NHỮNG HOẠT ÐỘNG QUÂN SỰ TẠI BIỂN ÐÔNG và TÂY THÁI BÌNH DƯƠNG
- THE PARACEL ISLANDS
- REMARKS ON THE EAST SEA CONFLICT
- VIETNAM REVIEW - THE STRATEGIC STUDIES
- REPUBLIC OF VIETNAM MINISTRY OF FOREIGN AFFAIRS WHITE PAPER SAIGON 1975
- Archives of the Republic of Vietnam and the East Sea
- NHỮNG TÁC ÐỘNG KINH TẾ LÊN KHU VỰC BIỂN ÐÔNG
- THE RVN CULTURAL, EDUCATIONAL MUSICS
- NHỮNG TRẬN ÐÁNH QUYẾT ÐỊNH (THE DECISIVE BATTLES)
- TÀI LIỆU về TVBQGVN (VNMA Archives)
Thứ Ba, 2 tháng 1, 2024
Thứ Năm, 21 tháng 12, 2023
Chủ Nhật, 26 tháng 11, 2023
Thứ Ba, 21 tháng 11, 2023
Xin Dành Một Lời Cám Ơn Ðến Các Thầy Cô Giáo Trong Mùa Lễ Tạ Ơn
Xin Dành Một Lời Cám Ơn Ðến Các Thầy Cô Giáo Trong Mùa Lễ
Tạ Ơn
Người Việt Nam trước năm 1975 có một nền văn hóa mang nặng
lòng tri ân thầy cô giáo được thể hiện rõ nhất qua câu phương ngôn “Mồng Một Tết
Cha, Mồng Ba Tết Thầy.” Thầy đây là thầy cô giáo, chính vì thế ngày Mồng Ba Tết
là ngày thứ ba của những ngày đầu năm, các học trò mang những quà biếu đến thăm
thầy cô giáo để tỏ lòng tôn kính, biết ơn và xem nặng vai trò các thầy cô là rất
khắng khít, gắn bó trong gia đình. Bản thân tôi cũng vậy trong những ngày còn
đi học, cha mẹ tôi thường nhắc nhở tôi đến thăm thầy tôi và biếu thầy chút quà
ý nghĩa. Từ ngày qua Mỹ chắc hẳn có nhiều người Việt đã đi học các lớp ESL
(English as the Second Language,) ít nhiều người Việt cũng mang chút ơn nghĩa với
những người thầy cô giáo đã giúp đỡ mình, khai tâm mình để mình học được tiếng
Anh nơi xứ lạ quȇ người. Các em nhỏ được sinh ra do cha mẹ được mớm bằng những
từ đầu tiȇn như ông, bà, cha, mẹ, được nuối nấng, săn sóc, nhưng theo luật định
thì khi lȇn 5 tuổi bé nào cũng phải đến trường mẫu giáo để các thầy cô giáo
khai tâm, vỡ lòng để các em bắt đầu cuộc hành trình văn hóa rất dài cho đời
mình có khi đến trọn cả cuộc đời của các em.
Ngày Lễ Thanksgiving mang ý nghĩa Tạ Ơn, cả gia đình quay
quần cùng những người thân của mình hay những người mình thương yȇu bȇn bàn ăn,
chia nhau những lời cám ơn chân tình sau một năm dài có được miếng cơm manh áo
lành lặn, hay cám ơn những người đã giúp ta về vật chất, chúng ta cũng dành câu
“Happy Thanksgiving” cho những người xa lạ như các khách hàng ở một tiệm buôn, nhưng
chúng ta thường quȇn đi một lời cám ơn cần có dành cho những người thầy cô giáo
đã mang đến cho ta những thức ăn trí tuệ và tinh thần sẽ đi theo cuộc đời ta
mãi mãi không như những vật chất, tiền bạc, của cải, hay danh vọng rồi sẽ bị hủy
hoại sớm chiều. Một lời Cám ơn trong mùa Lễ Thanksgiving cần nȇn có dành cho các
thầy cô giáo đã dạy ta chữ, tiếng Anh qua các lớp ESL, hay đã dạy dỗ con em
chúng ta nȇn người hữu dụng thay cho mình khi mình tất bật với sinh kế.
Mùa Lễ Tạ Ơn năm nay, chúng ta hãy dành chút tri ân nhớ
đến các thầy cô giáo dù ở học khu nào, dù ở trường học nào nơi con em chúng ta
đi học, hay ở tiểu bang nào, dù ở Trung Tâm Văn Hóa Việt Ngữ nào, và không chỉ
riȇng thầy cô giáo Việt. Chúng ta hãy giúp con em chúng ta biết yȇu thương thầy
cô giáo của chúng và biết tri ân họ vì họ đã mang đến con em chúng ta những nguồn
ánh sáng và trí tuệ cho các em trở thành người hữu ích cho bản thân và xã hội.
Chúng ta có một lời Cám ơn dành cho các thầy cô giáo để làm gương sáng cho con
em chúng ta biết rằng đó là văn hóa, đạo đức cổ truyền của dân tộc Việt.
Mùa Lễ Tạ Ơn năm nay, chúng ta cũng dành chút thì giờ tri
ân nhớ về các thầy cô trong học khu của chúng ta và riȇng đối với học khu East
Side Union High School District nơi có mái trường Trung Học Yerba Buena thân
yȇu và cầu nguyện Ơn Trȇn ban cho cô Hiệu Trưởng và các thầy cô giáo được nhiều
nghị lực, vững lòng tin vào sự thương yȇu của cộng đồng để hướng dẫn con em
chúng ta thành công trȇn đường học tập giúp ích cho tương lai các em hữu dụng cho
cộng đồng và xã hội.
Hoàng Hoa
Thanksgiving 2023
Thứ Bảy, 18 tháng 11, 2023
Kính Thông Báo v/v Thành Lập Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Giáo Chức Việt Nam * (The Committee of the Vietnamese Teachers’ Rights)
Kính Thông Báo v/v Thành Lập
Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Giáo Chức
Việt Nam
(The Committee of the Vietnamese Teachers’
Rights)
Kính thưa quý bậc Trưởng
Thượng, các Thân Hào và Nhân Sĩ,
Kính thưa quý Lãnh Ðạo
Tinh Thần các Tôn Giáo,
Kính thưa quý Hội Ðoàn,
Ðoàn Thể, các cơ quan Truyền Thông Báo Chí Việt ngữ,
Kính thưa các Cộng Ðồng
Việt Nam tỵ nạn cộng sản tại Bắc Cali,
Kính Thưa quý vị,
Dân tộc Việt Nam chúng
ta có những câu phương ngôn để nói lȇn mối liȇn quan giữa nhà giáo và văn hóa
Việt, “Nhất Tự Vi Sư, Bán Tự Vi Sư,” “Tiȇn Học Lễ Hậu Học Văn,” “Trọng Văn
Khinh Võ,” “Tiếng Việt Còn, Chữ Việt Còn, Người Việt Còn,Tiếng Việt mất, Người
Việt mất.” “Thầy như Cha Mẹ,” vv…
Trong lịch sử Việt Nam
cũng có những nhân vật lẫy lừng mài kiếm dưới trăng nuôi chí cả, hoặc như như
Ðức Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn với bài Hịch Tướng Sĩ và sách Binh Thư Yếu
Lược, hoặc như chú tiểu Lý Công Uẩn, sau này là Vua Lý Thái Tổ, đốt lá cây đa
để đọc sách xây dựng nhà Hậu Lý, có công giúp truyền bá đạo Phật tại Việt Nam
và xây cất Chùa Một Cột độc đáo nhất nhì thế giới, hoặc Thầy Nguyễn Phi Khanh
đã sinh ra người anh hùng Nguyễn Trãi với bài Bình Ngô Ðại Cáo, về phận nữ nhi
văn hay chữ giõi có Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Huyện Thanh Quan, Bà Ðoàn Thị
Ðiểm, Bà Hồ Xuân Hương,.. Thế mới biết người Việt Nam chúng ta dù phận nam nhi
hay nữ nhi đều có những người văn chương xuất chúng làm gương sáng cho các thế
hệ mai sau. Dĩ nhiȇn chúng ta không quȇn rằng người Việt Nam chúng ta hiện nay
tại các quốc gia ngoài Việt Nam đều có những người văn hay chữ giõi, và văn võ
song toàn ngay cả nữ nhi cũng có người là tướng lãnh trong quân đội Hoa Kỳ, là
bác sĩ, kỹ sư mặc dù chúng ta đã ra đi tỵ nạn cộng sản chỉ mới 48 năm.
Bắt nguồn từ những hiện
thực trong cộng đồng Việt Nam tại Bắc California trong hơn tháng qua kể từ
trung tuần tháng 9 năm 2023 chúng tôi đã nhận ra những trăn trở về các sự kiện
phức tạp mang nhiều tiềm ẩn liȇn quan đến nền văn hóa Việt Nam đang xãy ra. Các
sự kiện phức tạp này tuy đơn giản nhưng vì nó xãy ra trong một môi trường đa
văn hóa, đa chủng tộc, vì thế nó mang nhiều tiềm ẩn đáng quan ngại.
Vì những lý do trȇn
chúng tôi xin mạo muội thành lập một Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Giáo Chức Việt Nam
(UBBVQGCVN) và quyết định tạm thời tạo dựng một Google™ Group có địa chỉ ubbvqgcvn@googlegroups.com mang danh xưng
như trȇn UBBVQGCVN. Việc tạo dựng Google™ Group này nhằm mục đích
tập hợp các nghiȇn cứu, các sự kiện đáng ghi nhớ, các tham luận, các đề nghị,…
liȇn quan đến giáo chức Việt Nam để trong trường hợp khẩn thiết các cơ quan
truyền thông hay các cấp thẩm quyền có thể tham khảo. UBBVQGCVN là một tổ chức
phi lợi nhuận, phi đảng phái, phi chính trị, phi tôn giáo, phi quân sự, nhưng
đặt trȇn căn bản hiện thực với dữ kiện và các chuỗi liȇn quan trong sinh hoạt
cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại miền Bắc Cali nhiều hơn trong giai
đoạn này. Google™ Group UBBVQGCVN có tính khép kín (Closed,) các thành viȇn
được chọn lọc trong hơn 420 người hoặc hơn nữa có chữ ký trong cuộc Vận Ðộng Yễm Trợ Cô Hiệu Trưởng Trường TrungHọc Yerba Buena và các bài vỡ chỉ được tham khảo khi cần
đến, trong trường hợp nào đáng quan tâm và ưu tiȇn cho các cấp thẩm quyền.
Chúng tôi sẽ thông báo
đến quý vị những thành viȇn trong Ban Ðiều Hành UBBVQGCVN Google™ Group trong
thời gian sắp đến.
Trân trọng,
Hoàng Hoa,
Trưởng Ban Biȇn Tập
Channel SaigonFilms Media
Web Site www.saigonfilms.com
Ngày 18/11/2023
Thư Lưu trữ.
Thứ Ba, 24 tháng 10, 2023
Chương Trình Gây Quỹ Cho Hội Học Sinh Việt Nam Trường Yerba Buena
Thứ Ba, 3 tháng 10, 2023
Cuộc Gặp Gỡ Bất Ngờ với NT Nguyễn Văn Dục K17 tại Trại Tù Bù Loi (part 1 and part 2)
Cuộc Gặp Gỡ
Bất Ngờ với NT Nguyễn Văn Dục K17 tại Trại Tù Bù Loi
Ngày
17 tháng 5, 1975, sau ngày miền Nam lọt vào tay giặc, sau khi khi trình diện
Ban Quân Quản cộng sản tôi đi theo mẹ tôi đi làm rẫy tại La Ngà (cây số 102,) hai
hôm sau (19/5/1975) tôi bị du kích VC bắt giải đi Bộ chỉ huy quân Bắc Việt tại
một ngôi chùa bȇn cạnh hòn đá lớn tại Ðịnh Quán (cây số 113) để điều tra. Buổi chiều
tối hôm đó, tay tôi vẫn đang bị cột du kích VC dẫn tôi đi giữa chợ Ðịnh Quán đến
Trường Tiểu Học Ðịnh Quán và xiềng chân tôi tại đây với tội danh là một sĩ quan
“ngụy.” Chân phải tôi mang một sợi dây “lòi tói” một đầu xích vào chân bằng một
ổ khóa, đầu kia xích vào chân bàn học bằng một ổ khóa khác. Mỗi buổi sáng khi đi
vệ sinh đầu lòi tói kia được mở ra, nhưng sợi dây lòi tói được quấn vào chân phải
tôi với hai ổ khóa. Ngày 22 tháng 7, 1975, tôi được chuyển đến trại tập trung Lȇ
Lợi, Long Khánh nguyȇn là Kho Quân Cụ của SÐ18/VNCH.
Năm
1977 tôi được chuyển lȇn Ðoàn 500 Phước Long Sông Bé. Ðoàn 500 là một vị trí
núi rừng hoang vu nằm về phía Bắc cầu sông Bé và nằm trọn trong mạn phải (hữu
ngạn) thượng nguồn sông Bé, cây rừng chủ yếu là tre nứa mọc dọc theo hai bȇn bờ
sông Bé,. Từ Ðoàn 500 ra đi phải qua cầu sông Bé, ngày đó gọi là cầu 10T (10 tấn,)
nơi mà vào những buổi trưa sau khi đi cắt tranh, hay đốn tre, hay nhổ khoai mì
tôi thường xuống chân cầu xi măng ngồi nghỉ mệt hay ăn trưa với những củ khoai
mì luộc hay nướng. Thời gian này là lúc gian khổ nhất. Có nhiều khi tôi không
tin sẽ có một ngày về. Nhưng tôi tin vào thuyết định mệnh và sự sinh tồn vì thế
mặc dù đói rét và bệnh tật tôi luôn luôn lạc quan, học hỏi và rèn luyện sức khoẻ.
Sông Bé, nơi thượng nguồn của nó bề ngang sông khoảng 25m là một thử thách lớn
nhất của tôi, vào mùa mưa nước từ nguồn xuống chảy trút cuồn cuộn dâng cao như
thác đỗ, tôi vẫn không cảm thấy sợ hãi vì tôi đã luyện tập bơi lội sang bȇn kia
sông mỗi khi đi tắm. Vì vậy trong một lần cháy rừng, tôi đã bơi dọc theo sông về
trại, vì chiếc bè di tản đã quá đầy không còn chỗ cho tôi. Tôi còn nhớ những tảng
đá hai bȇn bờ sông Bé đã gây cho tôi nổi khiếp sợ nhìn như những con quái thú.
Những ngày ít mưa là những ngày đi rừng chặt tre, nứa, nghe tiếng khỉ hú và trȇu
chọc, nhiều khi một thân một mình giữa rừng hoang vắng tôi đã nén tất cả đau đớn
trong lòng chỉ biết rằng phải có một ngày về và phải còn sự sống cho tôi làm một
điều gì có ích cho những người thân với chút lý tưởng còn sót lại. Dấu vết của
chiếc cầu 10T mà chúng tôi gọi là cầu 10 tấn bắt ngang thượng nguồn Sông Bé, nơi
mỗi trưa, tôi dừng chân giở lon guigoz và ăn những lát khoai mì khô hay chút cơm
dưới chân cầu bằng xi măng và ngắm dòng sông nước chảy chầm chậm, ngày nay vẫn
còn. Thời gian này gian khổ nhất, đói, cực nhọc, bị muỗi mòng, vắt đỉa hút máu,
người tôi chỉ như bộ xương biết đi.
![]() |
Từ Ðoàn 500 ra đi phải qua cầu sông Bé, ngày đó gọi là cầu 10T (10 tấn,) |
Cuối
năm 1978, có cuộc chuyển trại tù cải tạo từ Ðoàn 500 Phước Long đến trại tù Bù
Loi, Phước Long. Chặng đường dài khoảng 80km, các tù nhân cải tạo gồm các sĩ
quan QLVNCH phải gồng gánh mang theo tất cả vật dụng cá nhân gồm lương khô được
thăm nuôi, quần áo, nồi niȇu, lon guigoz, dao rựa, nước uống ước lượng 15kgs
cho một người. Khởi hành từ sáng sớm từ Ðoàn 500 đi trȇn con đường đất đỏ lȇn dốc
xuống dốc đến khoảng 6 giờ tối thì đến láng trại Bù Loi, một khu vực nhỏ gồm những
láng trại cho các tù nhân cải tạo gần với Sóc Bom Bo và nằm giữa Sóc này với chợ
Minh Hưng.
Gồng
gánh trȇn vai, người tôi mặc chiếc áo vải kaki lính đầy ắp mãnh vá bằng vải bao
cát, trȇn đầu quấn cái khăn nhỏ, chân mang đôi dép nhựa mà có lúc phải cởi bỏ
ra vì mồ hôi làm ẩm đôi chân không bám vào dép được khi bước đi trȇn mặt đường đầy
bụi đất đỏ cao nguyȇn.
Lộ
trình di chuyển không được cho biết, nhưng chúng tôi phải dậy sớm ăn uống no
mang theo nước uống rồi phải rời trại Ðoàn 500 vừa khi có lệnh báo.
![]() |
Cuộc chuyển trại tù cải tạo từ Ðoàn 500 Phước Long đến trại tù Bù Loi, Phước Long. |
Lộ trình di chuyển dài khoảng 80km mới đến Bù Loi, rồi rẽ phải, chúng tôi men theo con đường mòn nhỏ trong rừng dẫn chúng tôi đến một con suối nhỏ, qua một túp lều là lò rèn thì tới khu láng trại với khoảng 2 hay 3 gian mái tranh, vách ngăn bằng phȇn nứa trông thật hiu quạnh và xơ xác thì trời đã chập choạng tối. Bước vào trong chúng tôi nhìn thấy những chiếc chõng phȇn tre đan kết bằng thân cây nứa. Chúng tôi bỏ xuống hành trang và chuẫn bị lon guigoz luộc những củ khoai mì mang theo để ăn. Tôi vẫn còn nhớ, phía sau láng trại còn những cây ớt hiểm mà tôi nghỉ là của những người Thượng đã trồng trước đây. Khu láng trại này với những chiếc chõng tre đã chứng tỏ đã từng có người tù cải tạo ở và họ đã ra đi đâu bỏ trống lại nơi này cho chúng tôi đến.
Sau
này tôi mới nghe từ những người cũ còn ở lại cho biết có một toán tù cải tạo vừa
rời bỏ nơi đây đi đâu tôi không biết trong đó có anh Phạm Minh Tâm K25, người từng
cùng tôi dự tranh đi học Trường Võ Bị West Point năm 1970, một người tù cải tạo
nữa là NT Nguyễn Trọng Tường K24 cũng đã rời trại này trước khi tôi đến, nhưng đặc
biệt nhất, NT Nguyễn Văn Dục K17 vẫn còn ở lại trại Bù Loi này, nhưng không cùng
láng trại với tôi.
(Còn
tiếp)
Cuộc Gặp Gỡ Bất Ngờ với NT Nguyễn Văn Dục K17 tại Trại Tù
Cải Tạo Bù Loi 1979
Trần Hữu Hạnh K25
(Tiếp theo kỳ trước)
Ðȇm trôi qua tại trại tù cảo tạo Bù Loi thật bình dị cùng
với những chập chờn mệt mõi, đói, và nhớ về quȇ nhà khôn xiết. Cái chõng tre
đôi cho hai người nằm ngủ kȇu cọt kẹt mỗi khi trở mình, phía trȇn đầu giường là
dãy bợ bằng nứa chứa những “hành lý” rách rưới mà tôi mang theo trȇn đường từ
Ðoàn 500 Sông Bé đến đây. Dưới đất, tôi chỉ có đôi “dép râu” còn đầy bụi đỏ mà
ai đó đã cho tôi trước khi lȇn đường từ Ðoàn 500.
Sáng hôm sau, chúng tôi được chia ra nhiều “tổ” để đi
“lao động.” Một tổ đi cắt tranh để lợp thȇm cho nóc láng, một tổ đi chặt nứa để
làm phȇn, một tổ bắt đầu đi thu hoạch củ khoai mì. Về phía Tây của trại tù cảo
tạo Bù Loi (Bù Loi) là những đồi thấp ngút ngàn lúa xanh, xa hơn nữa là những
“rừng” cây khoai mì bát ngát, xa hơn nữa là rừng hoang với cỏ tranh vàng xanh lẫn
lộn. Tôi thuộc tổ đi thu hoạch củ khoai mì và phải đạt “chỉ tiȇu” là 50 kgs mỗi
người tù. Những bao củ khoai mì phải được vác về trại nộp cho “cán bộ VC” có một
“trại viȇn cải tạo” được phân công xem xét và cân đo, và ghi tȇn người tù nào
làm xong chỉ tiȇu lao động. Những trại viȇn cải tạo có thể đi vòng trong rừng
giáp ranh với đường lộ chính, nay 2023 là Ðường Tỉnh Lộ 760 (ÐT760) hay có thể
lấy đường chính là ÐT760 vác bao củ mì về trại. Thời gian này tôi đã tình cờ gặp
NT Trần Minh Chánh K24 đang đi trȇn đường đất đỏ cùng với một người phụ nữ trẻ
với một người nữa như là người em đi thăm ông, và tôi chỉ hỏi thăm ông rồi
thôi. Nhiều năm sau tại Mỹ, khi viếng Lễ Tang Phu Nhân Cố Ðề Ðốc Trần Văn Chơn
tại San Jose, Ca. tôi có gặp lại NT Trần Minh Chánh K24 và được biết người phụ
nữ ấy là bà xã của ông sau này và tôi cùng có chào hỏi phu nhân của NT Chánh
ngày hôm ấy.
Thời gian này tôi rất chú ý tìm kiếm NT Nguyễn Văn Dục
K17, nhưng không sao tìm gặp được và nếu có hỏi thì chẳng biết ai để hỏi và chẳng
biết ai biết vì tôi không biết trại Bù Loi này lớn và đông trại viȇn ra sao;
hơn nữa, trại viȇn chỉ biết đi lao động rồi xong trở về láng trại mình, việc tiếp
xúc nhau coi như nghiȇm cấm ngoại trừ trong cùng “tổ.”
Bù Loi được chia thành hai khu láng trại. Khi đi vào từ
đường lộ đất đỏ nay là ÐT760 sẽ qua một giòng suối cạn chảy qua những viȇn đá
nhỏ và rồi đến một ngã ba. Tại đây nếu rẽ trái sẽ gặp một túp lều làm lò rèn rồi
đi xa nữa sẽ gặp một láng trại, láng trại này chạy song song với một con suối
trước đây khi vào trại, nhưng giờ đây con suối sâu hơn với cây cối mọc um tùm.
Người ta có thể nghe tiếng chim quốc kȇu vào chiều chiều. “Chiều chiều chim vịt
kȇu chiều, buâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau.” Lò rèn này có trước khi
tôi đến và xem có vẻ hoạt động từ lâu để làm liềm, búa, dao, rựa, … Như thế trại
Bù Loi đã có từ lâu, có thể cùng thời gian khi tôi đến Ðoàn 500. Nếu từ ngã ba
này đi thẳng vào trong thì sẽ gặp láng trại của tôi bȇn trái con đường mòn, và
nếu đi sâu hơn khoảng 100m thì sẽ gặp một con suối sâu đến gần 2m, tại đây
chúng tôi thay phiȇn nhau đến suối xuống múc nước gánh về láng trại chia nhau nấu
nướng hay tắm rửa. Nếu đi về phía hạ lưu của suối thì chúng tôi có thể tắm giặt,
nhường thượng nguồn cho nước ăn uống. Ngày nay chúng ta biết rằng con suối này
chảy đổ vào Sông Daklap, con sông này chia cắt Bù Loi với Chợ Minh Hưng Bù
Ðăng.
Chính những ngày đi múc nước suối này tôi đã gặp một người
trại viȇn tù cải tạo dáng trung niȇn mà tôi ngờ ngợ là NT Nguyễn Văn Dục K17.
Tôi đã hỏi “Thưa ông, trước đây ông có bao giờ ở Ðà Lạt?” Ông trả lời “Có.” Tôi
hỏi “Có phải ông tȇn Dục không ạ?” Ông nói “Phải, tôi là Dục. Có phải em học ở
Trường Võ Bị không?” Tôi nói “Dạ phải, em tìm kiếm và muốn gặp anh. Hôm nay thật
là may mắn em gặp gặp anh.” Tôi thật sự không dám gọi NT vì sợ ăng ten nghe thấy.
Ông cho tôi biết ông ở láng trại gần với đường lộ và tôi hẹn sẽ sang thăm ông.
Thắm thoát, vài tháng trôi qua, trời se sắt lạnh. Tưởng
cũng nȇn biết, chiến tranh giữa VC với Campuchea đã và đang diễn ra khốc liệt
vào năm 1977, 1978 và cuối năm 1978 đã diễn ra những căng thẳng vùng biȇn giới
Bắc Việt với Trung cộng cho đến đầu năm 1979 thì chiến sự giữa VC và TC bùng nổ
dọc theo biȇn giới.
Những ngày cuối năm âm lịch lòng tôi thấy nao nao thương
nhớ về quȇ nhà. Ðȇm 30 Tết, trong láng trại, vài anh em quay quần bȇn nhau kể
chuyện chút cho vui thì có người nói chúng tôi xem thử thời vận bằng cách bói
thơ Kim Vân Kiều nghe nói là “linh” lắm. Người ấy có mang theo cuốn Kim Vân Kiều,
tôi đồng ý vào nôn nóng “xem quẻ bói linh” trước. Bȇn ngọn đèn mờ tỏ, tôi nhắm
mắt thinh lặng tập trung rồi lần theo cuốn truyện thơ mà giở vào trang tôi muốn
chọn. Khi giở ra, mọi người cùng xem đọc với tôi những giòng thơ sau làm lòng tôi tȇ tái, đó
là những câu thơ mà Nguyễn Du viết về một cuộc chia ly giữa Thúy Kiều và Thúc
Sinh.
Người lȇn ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.
Dậm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dậm một mình xa khơi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa khơi dậm sầu.
…
Than ôi, thế là cuộc chia ly vẫn còn, và quȇ nhà vẫn còn
xa ngoài tầm với!
Ðȇm 30 Giao Thừa trôi qua, lòng tôi buồn hơn khi nào hết,
nghĩ đến nhà, đến thân phận nô lệ, nghĩ đến nước non. Ngày Mồng Một Tết các trại
viȇn được nghỉ lao động và cũng dễ chịu vì bớt bị nghe ngóng theo dõi, và có thể
đi lại tự do, tôi quyết định đi thăm NT Nguyễn Văn Dục. Ngược ra phía đường lộ,
rẽ phải về lò rèn rồi đi thȇm chừng 100m nữa thì đến láng trại của ông, tôi hỏi
những người gần gủi để tìm ông thì gặp ông. Bȇn hiȇn ngoài, ông mời tôi chén nước,
hai anh em chúng tôi kể sơ qua chuyện đi tù, thăm hỏi sức khoẻ và những gì nữa
mà nay tôi không còn nhớ, nhưng ông vẫn luôn lạc quan, tự tin, vui và vẫn dáng
dấp gầy gầy, vẫn với bộ râu, khuôn mặt xương và tôi không nhớ ông đã ốm ra sao,
nhưng không có vẻ gì đau yếu. Rất mừng cho ông. Từ ngày tôi ra Trường cuối năm
1972, đến khi ấy đầu năm 1979, thời gian chỉ có hơn 6 năm vì vậy những tình cảm
huynh đệ vẫn còn như xưa không thay đổi.
Tôi gặp lại NT Nguyễn Văn Dục K17 tại trại tù Bù Loi
trong hoàn cảnh khắc nghiệt của vận mệnh đất nước tưởng như trong giấc mơ. Người
ta có thể gặp nhau trong men say, rượu ngọt và tiếng nhạc quay cuồng, nhưng những
giọt đắng luôn còn tồn tại với cuộc đời như những vết hằn không phai cùng năm
tháng.
Sunnyvale, Ca. 10/06/2023
(Viết về kỷ
niệm với NT Nguyễn Văn Dục, Cùi 17. Bài viết này chưa hoàn chỉnh các chi tiết bản
đồ, sơ đồ khi tôi đến trại Bù Loi vào năm 1979, và hình ảnh 11 năm sau tôi gặp
lại NT Nguyễn Văn Dục tại Sài Gòn.)