Thứ Hai, 13 tháng 9, 2010

Viễn ảnh Bauxite Việt Nam Những tuổi thơ trong mỏ quặng

http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=66768
Viễn ảnh Bauxite Việt Nam qua sự hình thành chủ nghĩa thực dân Trung Quốc tại Congo

VietCatholic News (01 May 2009 16:35)

Những tuổi thơ trong mỏ quặng
Em Adon Kalenga làm việc cho một hãng thu mua quặng. Công việc của em mỗi ngày là vác những bao quặng nặng gần 100 kí lô từ những hầm sâu, ẩm thấp đi rửa sạch và vác trở về cho chủ hãng thầu. Như em tả, cả thân thể em đều cảm thấy đau nhức và cả mười ngón tay trầy trụa sau một ngày dài rửa quặng. Em Adon Kalenga chỉ mới 13 tuổi. Trong lúc hầu hết thiếu niên cùng tuổi em trên thế giới đang đến trường thì em phải làm việc không ngưng nghỉ suốt bảy ngày mỗi tuần. Em không đủ tiền để đóng học phí, trung bình khoảng 6 Dollar một tháng. Em không có nhà ở. Đêm về, em ngủ nhiều nơi trên đường phố và cũng có khi tìm đến tạm trú trong các trại mồ côi. Cha của Adon chết khi em mới 9 tuổi. Mẹ em sau đó cũng bỏ nhà ra đi. Bà con thân thích không ai nhận nuôi dưỡng em khi chính họ còn không đủ sức nuôi con của họ. Em trở thành đứa bé mồ côi. Sau khi lang thang bụi đời một thời gian, các bạn của em gợi ý nên đi đào quặng bán lại cho các công ty thu mua Trung Quốc. Thế là em cùng các bạn đi đào quặng để kiếm sống. Trong năm đầu tiên em có lần suýt chết khi trời mưa lớn làm đất sụp thành bùn đè lên những người đang làm dưới hầm sâu. Bốn người bạn của em, Fabrice, Jean, Patient and Patrick đều bị bùn chôn sống trong tai nạn đó. Em may mắn sống sót nhưng thương tích đầy mình. Adon nói “Cuộc sống của em rất khó khăn. Em không hiểu tại sao.”
Một người bạn của Adon tên là Carlito Muamba, cũng chỉ mới 15 tuổi nhưng mỗi ngày phải chui vào những hố sâu trong lòng đất để đào bằng tay và chiếc xẻng nhỏ. Phía trên hầm không có gì che, mỗi khi đào, đất và bụi rớt xuống phủ kín chiếc đầu không tóc của em. Áo quần em biến thành màu đỏ nhưng em vẫn tiếp tục đào. Mồ hôi trộn lẫn vào bụi đỏ. Không có thang để trèo. Mỗi khi muốn vào hay ra khỏi hầm, em phải bò bằng chân tay. Và đến cuối ngày em cũng được chủ thầu phát một số tiền tương đương với 3 Dollar. Khi được hỏi lý do em làm việc cực nhọc, Carlito trả lời “em cần tiền để mua thức ăn.” Rất đông các bạn cùng tuổi em đi đào quặng.
Mặc dù trên giấy tờ Congo có ký vào hiệp ước quốc tế nghiêm cấm lao động trẻ em vị thành niên, trong thực tế chẳng bao giờ được áp dụng. Ở châu Phi giá trị của mạng sống con người rất rẻ. Nhiều chuyện còn quan trọng hơn như việc hàng trăm người trong đó có bốn trẻ em bạn của Adon, bị đất sụp chôn sống cũng chẳng được ai quan tâm nói chi là chuyện trẻ em đi làm. Bà Wangari Maathai, người phụ nữ Phi châu đầu tiên được trao giảo Nobel Hòa bình năm 2004, quy trách nhiệm không chỉ lên chính phủ Congo mà cả các công ty đầu tư cũng đã vi phạm luật lạm dụng lao động trẻ em: “Tại những quốc gia, nơi nhân quyền không được tôn trọng và người dân không thể buộc chính phủ để chịu trách nhiệm thì chính phủ của các công ty đầu tư phải đề ra những điều kiện lao động.” Chính phủ mà bà muốn nói là Trung Quốc và các công ty thu mua quặng cũng là các công ty Trung Quốc tại Congo, nhưng phía chính phủ Trung Quốc bao giờ họ cũng trả lời “đó là vấn đề của Congo, không liên quan gì đến công ty hay chính phủ Trung Quốc.”
Adon và Carlito là hai trong số 67 ngàn người Congo đang sống bằng nghề đào quặng tại tỉnh Katanga, phía nam Congo, và câu chuyện cảm động về hai em Adon Carlito do một nhóm phóng viên của hãng Bloomberg thực hiện.
Cuối tháng Tám 2008 trên báo Daily Mail ở Anh, nhà báo Peter Hitchens trong phóng sự “Làm thế nào Trung Quốc đã dựng nên một đế quốc nô lệ mới tại Phi Châu” (How China has created a new slave empire in Africa), đã mô tả đời sống của những người dân Congo mà tác giả gọi là “nghèo khổ, vô vọng, giận dữ” khi phải chui vào những hố sâu 25 mét trong những mỏ quặng bỏ hoang để tìm những mảnh quặng đồng còn sót lại, rửa sạch từ những vũng nước dơ và chất thành những kiện nặng tới hàng trăm kí-lô trên những chiếc xe đạp già nua để đem bán cho các thương gia Trung Quốc đang cần nguyên liệu. Nhiều trong số họ đã chết khi những hầm đất sụp hay bị thương nhưng không có thuốc men. Phần lớn đều có con nhỏ. Nhưng nếu họ may mắn sống sót và sau một ngày thu nhặt quặng thành công, họ kiếm được 3 Dollar để nuôi sống bản thân và gia đình trong những thôn xóm tồi tàn đầy bịnh tật. Và cũng theo phóng sự của Peter Hitchens, đời sống một người dân Congo hôm nay không khác gì của ông bà họ ở thế kỷ 18, nếu có khác chăng họ phải làm việc nhiều lần khổ hơn trong một điều kiện cũng tệ hại hơn nhiều.
Dù sao, công việc đào quặng đó cũng chỉ là một phần của các công ty thu mua tư doanh Trung Quốc, thỏa hiệp kinh tế được ký kết giữa chính phủ Congo và Trung Quốc đầu năm 2008 lớn hơn nhiều. Hiệp ước kinh tế trị giá hàng chục tỉ Dollar, có ảnh hưởng gần như hầu hết các mặt trong đời sống xã hội tại Congo không phải chỉ trong vòng 10 năm tới mà trong một thời gian rất dài và cũng không chỉ ảnh hưởng về mặt kinh tế mà cả xã hội, văn hóa, truyền thống.
Để cảm thông với số phận Congo, có lẽ nên đi ngược dòng lịch sử tìm hiểu thêm về vùng đất giàu tài nguyên nhất nhưng là một đất nước chịu đựng nhiều thiệt thòi và bất hạnh nhất trên lục địa Phi châu.
Tội ác diệt chủng bị lãng quên
Cộng hòa Dân chủ Congo (Democratic Republic of the Congo, thời Mobutu được gọi là Zaire, thường dễ bị lầm lẫn với Cộng hòa Congo hay Congo-Brazzaville) là một quốc gia vùng trung Phi, có diện tích 2.3 triệu kilô mét vuông và dân số 64 triệu theo thống kê 2008, thủ đô là Kinshasa. Congo có nhiều nguồn tài nguyên phong phú như đồng, vàng, kim cương, cao su, cobalt nhưng lợi tức đầu người hàng năm chỉ có 140 Dollar. Congo tập hợp của khoảng 200 sắc dân. Về căn bản, Congo vẫn là một quốc gia nông nghiệp nhưng từ 1985 việc đô thị hóa ngày càng gia tăng. Về mặt chính trị, chính phủ Congo hiện nay chi phối bởi hiến pháp 2006. Để đạt được một xã hội tạm yên như hiện nay, nhân dân Congo cũng đã phải trả một giá bằng máu của nhiều triệu dân Congo.
Không giống chế độ thực dân tại các nước khác được mở đầu bằng võ trang xâm lược, chế độ thực dân Bỉ có mặt tại Congo được diễn ra dưới hình thức mua bán, trao đổi giữa Henry M. Stanley, đặc sứ của vua Bỉ Leopold đệ nhị và các lãnh đạo Congo địa phương sống dọc sông Congo. Cuối năm 1884, Stanley đã ký 450 hiệp ước thay mặt cho vua Leopold. Kết quả, Congo trở thành một nước có tên gọi mỉa mai “Nước Congo Tự do” dưới quyền sở hữu cá nhân của vua Leopold với thủ đô đặt tại Boma, một quận nằm bên bờ sông Congo.
Dưới sự bóc lột sức lao động tàn nhẫn để phục vụ cho túi tham không đáy của vua Bỉ Leopold đệ nhị, người dân Congo trải qua gần một thế kỷ trong địa ngục trần gian. Nhân loại nhắc nhiều về Holocaust, diệt chủng Armenian nhưng so với tội ác của Bỉ tại Congo, số người Do Thái bị Hitler giết hay Armenian bị Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt còn thấp hơn nhiều. Khoảng một nửa dân số Congo thời bấy giờ, 10 đến 15 triệu dân, đã bị quân đội và tay sai dưới quyền của vua Leopold tàn sát. Mặc dù chưa bao giờ đặt chân đến Congo, đất nước đã là phần tài sản của ông ta. Vua Leopold đệ nhị thành lập một hệ thống lao động khổ sai trong đó con người đơn giản chỉ là một dụng cụ sản xuất. Những năm giá cao su lên cao, Leopold chỉ thị cho phu đồn điền phải tăng giờ làm việc. Những ai không làm việc được bị hành hạ bằng nhiều cách như đánh roi, tra tấn và giết chết. Nhiều cuộc nổi dậy của dân chúng đã bị quân đội riêng của vua Leopold được gọi là Lực lượng Công cộng (Force Publicque) tàn sát không thương tiếc. Quân lính trong Lực lượng Công cộng có thông lệ mỗi khi giết một kẻ chống đối, họ chặt một cánh tay mang về trình lên cấp chỉ huy để làm chứng cho số lượng đạn dược đã dùng. Nhiều lính của Leopold thích đi săn khỉ, để giải thích cho số đạn đã bắn ra, chúng đã chặt tay thường dân để đem về trình thượng cấp. Viêc chặt tay không chỉ bị xảy ra cho người lớn mà cả trẻ em vô tội. Hình phạt chặt tay này còn tồn tại đến hôm nay tai Sierra Leone là vết tích của chế độ thực dân mà vua Bỉ Leopold đã để lại tại châu Phi. Mặc dù được các nước thực dân châu Âu cố tình che đậy và dìm vào quên lãng, tội ác diệt chủng của vua Leopold đã được ghi lại trong một số tác phẩm, tiểu thuyết, hồi ký và sử học, trong đó có sử liệu Tội ác tại Congo (The crime of the Congo) của Arthur Conan Doyle xuất bản tại London ngay trong năm Leopold chết, 1909, và Bóng ma của vua Leopold (King Leopold’ Ghost) của sử gia Adam Hochschild được xuất bản năm 1999.
Congo độc lập trong nhiễu nhương, phân hóa (1960 - 1965)
Trước áp lực dư luận quốc tế và cả quốc hội Bỉ, sau 1908, Congo bị sáp nhập vào Bỉ lần nữa. Quốc gia gọi là “Nước Congo Tự do” do Leopold lập ra dần dần bị giải tán nhưng điều kiện sống của người dân Congo không phải nhờ đó mà tốt đẹp hơn. Dân Congo vẫn một nước thuộc địa, không có một chút quyền hành gì trong bộ máy hành chính từ cấp trung ương đến địa phương. Đến 1955, ngọn lửa đòi độc lập được nhen nhúm từ các nhà ái quốc Phi châu lan rộng đến nhiều nước. Tại Congo nổi bật nhất là Patrice Emery Lumumba. Sau lời hứa trao trả độc lập dành cho các quốc gia thuộc địa Pháp của Tổng thống Pháp Charles de Gaulle nhân chuyến viếng thăm Trung Congo (nay thuộc Congo) đã kích thích việc đòi hỏi tự do của quốc gia trong lục địa Phi châu. Cuối cùng, Bỉ đã quyết định trao trả độc lập cho Congo vào ngày 30 tháng 6 1960. Patrice Emery Lumumba, 35 tuổi, trở thành Thủ tướng đầu tiên. Chính sách ngu dân và cô lập Congo với thế giới bên ngoài của vua Leopold và thực dân Bỉ để lại một hậu quả vô cùng trầm trọng về mọi mặt trong đời sống xã hội Congo sau khi được trao trả độc lập. Bản thân Thủ tướng Lumumba cũng chỉ học được bốn năm tiểu học và một năm huấn luyện làm nhân viên bưu chính. Dù ít học, Lumumba là một người rất thông minh, có lòng yêu nước sâu sắc, có tài ăn nói và giàu năng lực làm việc. Năm 1958, Lumumba và một nhóm thanh niên có học thành lập Phong trào Quốc gia Congo (Movement Natioal Cogolais, MNC) và là tổ chức chính trị có nhiều ảnh hưởng trong quần chúng nhất lại Congo lúc bấy giờ. Giành được độc lập là một chuyện nhưng điều hành đất nước lại là chuyện khác. Vào 1960, cả nước Congo chỉ có 30 thanh niên là tốt nghiệp đại học và 136 học sinh hoàn tất chương trình trung học. Congo không có ngay cả một bác sĩ, không có thầy hay cô giáo và sĩ quan quân đội. Cấp cao nhất trong quân đội mà một người Congo được thăng là thượng sĩ và người đó không ai khác hơn là Joseph Mobutu, nhà độc tài sắp xuất hiện trong lịch sử Congo.
Để thay thế quân đội Bỉ, Lumumba phong Mobutu lên chức tham mưu trưởng của quân đội Congo. Trước một đất nước có chủ quyền mà coi như vô chủ với hơn 50 phe nhóm chính trị được hình thành trong giai đoạn chuyển tiếp, Thủ tướng Lumumba vốn không có thiện cảm với các đế quốc thực dân, kể cả Mỹ, đã trở nên cực đoan trong cách giải quyết những xung đột nội bộ Congo. Ông kêu gọi Liên Hiệp Quốc giúp ổn định trật tự tại Congo. Sau khi quân độc Liên Hiệp Quốc đổ bộ xuống Congo, Lumumba còn đi xa hơn khi đòi trục xuất toàn bộ quân đội Bỉ chưa rút hết khỏi Congo, nếu không ông ta sẽ cầu cứu Liên-Xô. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh đang ở cao điểm, việc Lumumba cầu cứu Liên-Xô là một thách thức lớn đối với Mỹ. Sự có mặt của Liên-Xô ngay trong trái tim của Phi châu đối với Mỹ là một sự kiện không thể chấp nhận được. Tổng thống Eisenhower không muốn thấy một Cuba tại Phi châu nên đã quyết định loại trừ Lumumba bằng mọi cách, kể cả ám sát nếu cần. Mỹ mua chuộc được Joseph Mobutu, một phụ tá tin cẩn Lumumba và cũng là đương kim tổng tham mưu trưởng quân đội để thực hiện cuộc đảo chánh không đổ máu. Một trong những hành động đầu tiên của Mobutu là trục xuất các nhà ngoại giao Liên-Xô và các quốc gia thuộc khối cộng sản ra khỏi Congo. Lumumba bị bắt, bị tù và cuối cùng bị phe Katanga thù địch thân Bỉ giết chết lúc 10 sáng 17 tháng Giêng 1961.



Việc thiếu tin tưởng vào Tây phương và Mỹ đã dẫn Lumumba đến những quyết định sai lầm, không thực tế trong thời gian ngắn lãnh đạo Congo và bản thân Lumumba cũng chịu trách nhiệm một phần không nhỏ cho tình trạng xáo trộn của Congo, tuy nhiên, không thể phủ nhận tinh thần yêu nước, lập trường chống thực dân kiên quyết mà ông đã theo đuổi từ những ngày còn nhỏ. Sau khi Lumumba bị giết hàng trăm cuộc biểu tình chống Bỉ được phát động khắp thế giới. Patrice Emery Lumumba đã trở thành biểu tượng cho khát vọng độc lập của nhân dân Congo và nhiều chính đảng tại Congo hiện nay mang tên ông. Từ đó cho đến ngày 17 tháng 5 1997, Congo nằm trong tay của nhà độc tài tham nhũng Joseph Mobutu.



Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga (1965 - 1997)
Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga hay viết gọn là Mobutu Sese Seko, với tên trong khai sinh là Joseph Mobutu sinh ngày 14 tháng 10 1930 tại Lisala, một tỉnh Congo thuộc Bỉ. Cha mất sớm nhưng Mobutu đã xoay xở để theo học trong các trường đạo cho đến khi bị trục xuất vì lý do hạnh kiểm. Mobutu đăng lính. Với trình độ học vấn sẳn có và nói thạo tiếng Pháp, trong quân đội Mobutu được huấn luyện nghề thư ký kế toán tại tổng hành dinh của Lực lượng Công cộng. Mobutu được phong tới chức thượng sĩ, chức vụ cao nhất mà một người lính Congo được phong. Sau khi trở về đời sống dân sự Mobutu đi làm báo. Với tính thông minh, lanh lợi, Mobutu quen biết nhiều người, nhiều phe nhóm trong đó có cả nhà cách mạng chống thực dân Patric Emery Lumumba lẫn các nhân viên tình báo CIA. Mặc dù chưa bao giờ trực tiếp tham gia chống thực dân hay các phong trào cách mạng giành độc lập Mobutu đã vận dụng sự quen biết để tạo một vị trí chính trị lẫn quân sự vững chắc cho mình trong giai đoạn chuyển tiếp tranh tối tranh sáng tại Congo.
Sau khi chính thức nắm toàn quyền lãnh đạo Congo từ 1965, Mobutu lần lượt loại bỏ ra ngoài vòng pháp luật tất cả đảng phái, ngoài trừ Phong trào Nhân dân Cách mạng (Movement Populaire de la Revolution, MPR) do chính ông ta lập ra. Trong suốt 32 năm cai trị Congo, Mobutu dành dụm cho mình một tài sản được ước tính khoảng 5 tỉ Dollar trên sự nghèo đói cùng cực của đại đa số dân Congo. Con số 5 tỉ này tương đương với toàn bộ số nợ mà Congo phải vay mượn thế giới.
Những lời tung hô lãnh tụ đầy tính nịnh bợ, các khẩu hiệu tuyên truyền dối trá nhưng rất êm tai Mobutu nghe được trong những dịp viếng thăm các quốc gia cộng sản như Trung Quốc, Bắc Hàn, Rumania, hấp dẫn y đến nỗi khi về nước một trong việc làm đầu tiên của Mobutu không phải xây cầu, đắp đập mà là hình thành ngay một tư tưởng Mobutu. Mobutu ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10 1971 thay cả tên nước. Báo chí quốc doanh ca tụng Mobutu như một bậc tiên tri. Mobutu, người bị tố cáo đã giao nộp Lumumba cho phe Katanga giết để tránh tiếng sát nhân, phục hồi danh dự cho Lumumba. Y làm việc này không phải phát xuất từ sự kính phục lòng yêu nước của Lumumba, mà để giải tỏa dư luận, và đồng thời để tự phong mình là nhân vật số hai trong lịch sử Congo, sau Lumumba, có công giành độc lập.
Bạn thân nhất của Mobutu là nhà độc tài Nicholas Ceauşescu của Romania. Quan hệ của hai nhà độc tài không chỉ giới hạn ở cấp đảng, nhà nước mà cả cá tính thích sùng bái cá nhân cùng cực. Mobutu cũng thán phục chính cá tính độc lập của Nicholas Ceauşescu đối với Liên-Xô. Sự thân thiết của giữa Mobutu và Nicholas Ceauşescu phổ biến đến mức trong các câu chuyện trào phúng tại Congo, Mobutu Sese Seko được gọi thành Mobutu Sesesescu. Tháng 11 1996, Laurent-Desire Kabila với sự yểm trợ của Burundi, Uganda, Rwanda, đã phát động chiến tranh được gọi là chiến tranh Congo thứ nhất nhằm lật đổ Mobutu. Mobutu đang bị bịnh ung thư tiền liệt tuyến vào giai đoạn cuối, không chống trả nổi, phải lưu đày sang Morocco và chết một thời gian ngắn sau đó.
Laurent-Desire Kabila (1997 - 2001)
Một trong những kẻ thù thuộc loại kỳ cựu của Mobutu là Laurent-Desire Kabila, một lãnh tụ cộng sản hoạt động từ thời Lumumba. Trong thời gian Lumumba làm Thủ tướng, Laurent-Desire Kabila là một lãnh tụ thanh niên có trình độ đại học của một đảng nhỏ liên minh với Phong trào Quốc gia Congo của Lumumba trong quốc hội. Khi Lumumba bị giết, Kabila trốn vào rừng và thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Congo. Với sự yểm trợ võ khí của Trung Quốc, Kabila dù chỉ mới 24 tuổi, tuyên bố thành lập chính phủ ly khai theo chế độ cộng sản tại tỉnh Nam Kivu, phía tây hồ Tanganyika.
Năm 1965, Kabila liên kết với một trong những người cộng sản nhiều huyền thoại nhất của Mỹ châu là Che Guevara. Che nhận xét, trong số những người ông ta gặp, Kabila là ngưòi có nhiều điều kiện để lãnh đạo quần chúng. Kabila có tương lai vì tuổi còn rất trẻ và từng theo học triết học tại đại học ở Pháp. Tuy nhiên, cách sống xa hoa, chìm đắm trong rượu chè và chỉ biết quanh quẩn với gái của lãnh tụ cộng sản Kabila đã làm Che thất vọng và cuối cùng bỏ đi vào cuối năm 1965. Nhà nước cộng sản nhỏ nhoi nầy bị Mobutu càn quét và tan vỡ. Báo chí và cả Mobutu đều nghĩ rằng Kabila đã chết, nhưng không, ba mươi năm sau, Kabila lại xuất hiện và lần nầy lãnh đạo một liên minh quân sự của nhiều nước dưới danh nghĩa Liên minh Các Lực lượng Dân chủ Giải phóng Congo (Alliance des Forces Democratiques pour la Liberation du Congo-Zaire). Quân đội của liên minh đánh bại quân đội của Mobutu chỉ trong vòng vài tháng, và Kabila chiếm thủ đô Kinshasa ngày 20 tháng 5 1997.
Sau khi đánh bại Mobutu, Kabila tự phong là chủ tịch nước đứng đầu một chính phủ cứu nguy dân tộc và đổi tên nước là Cộng hòa Dân chủ Congo như đang được gọi hiên nay. Cuộc đời 30 năm sống trong bí mật của Laurent-Desire Kabila cho đến nay cũng còn nhiều huyền bí vì khi còn sống Kabila thường đánh trống lảng khi được hỏi về quá khứ của mình. Tuy nhiên theo các phóng viên điều tra trong đó có ABC News, lãnh tụ cộng sản Kabila và phe phiến loạn của ông đã sống bằng việc giết voi để lấy ngà, đào mỏ, buôn vàng, kim cương qua ngã Burundi, một nước nhỏ trên biên giới phía đông của Congo và cả bắt cóc người để tống tiền, trong đó ít nhất một người là Mỹ. Nhân dân Congo tránh vỏ dưa gặp phải vỏ dừa vì tham vọng của nhà độc tài Maoist Laurent-Desire Kabila không kém gì của Mobutu. Các nhóm dân chủ thật sự đều rút ra khỏi liên minh hay bị loại bỏ. Laurent-Desire Kabila bị một cận vệ ám sát ngày 18 tháng Giêng 2001. Con trai Laurent-Desire Kabila là Joseph Kabima được trao quyền Tổng thống thay cha.
Joseph Kabila và quan hệ Trung Quốc (từ 2001)

Joseph Kabila lên kế vị cha nắm chức vụ Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo khi chỉ mới 29 tuổi. Tuổi thơ ấu của ông ta cũng có nhiều huyền bí. Joseph Kabila sinh khoảng tháng 4 1971 tại một nơi nào đó hoặc miền đông Congo hay tại Tanzania. Mẹ của ông ta là vợ thứ ba của Laurent-Desire Kabila. Tuy còn trẻ nhưng Joseph Kabila tỏ ra khôn khéo về ngoại giao hơn cha. Trong chuyến thăm viếng Mỹ theo lời mời của Tổng thống George Bush sau khi được quốc hội Congo giao quyền Tổng thống, Josehp Kabila mong muốn có một Congo hòa bình sau khi đã trải qua hai cuộc chiến, Congo thứ nhất từ 1996 đến 1997 và Congo thứ hai từ 1998 đến 2003, với trên 4 triệu người chết. Trong buổi tiếp xúc Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell, Joseph Kabila cũng hứa hẹn sẽ có những cải cách dân chủ và nhân quyền tại Congo. Tháng 12 2005, một cuộc trưng cầu dân ý Congo chấp thuận một hiến pháp mới. Josehp Kabila ghi danh ứng cử với tư cách độc lập. Đối thủ của Joseph Kabila là Jean-Pierre Bemba, cựu phó Tổng thống và cũng là bạn chiến đấu của cha ông ta. Vì vòng đầu cả hai đều không đạt tỉ lệ trên 50 phần trăm như luật bầu cử quy lịnh, cuộc bầu cử phải tiến vào vòng hai, và lần nầy Kabila đắc cử Tổng thống với 58.5 phần trăm tổng số phiếu bầu. Còn khá sớm để đánh giá Joseph Kabila liệu có trở thành một Mobutu hay Laurent-Desire Kabila hay không, nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy Joseph Kabila đã có nhiều thay đổi như việc sắp xếp lại cơ cấu hành chánh và cho về hưu các viên chức quá già trong hệ thống công quyền. Joseph Kabila có quan hệ mật thiết với Trung Quốc. Khi vào tuổi 25, Joseph Kabila đã từng là tư lịnh binh đoàn Kadogos nổi tiếng đánh chiếm thủ đô Kinshasa. Sau khi cha làm Tổng thống, Joseph Kabila được gởi sang Trung Quốc để theo học quân sự tại Đại học Quốc phòng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh. Xa hơn nữa, quan hệ mật thiết giữa Trung Quốc và gia đình Kabila bắt đầu từ khi Joseph Kabila chưa ra đời. Bản thân Kabila cha là một Maoist và công khai bày tỏ lòng kính phục đối Mao Trạch Đông. Trong chuyến viếng thăm Trung Quốc của Joseph Kabila vào 22 tháng 3 2002, chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân cũng nhắc lại tình hữu nghị cố cựu giữa cha con Kabila và Trung Quốc. Uống nước nhớ nguồn, Josheph Kabila cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc vì đã hết lòng ủng hộ cha con ông ta trong giai đoạn khó khăn dài trước đó.
Chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc tại Phi châu
Sau khi thiết lập chế độ cộng sản tại lục địa Trung Hoa, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu tìm cách tạo ảnh hưởng tại Phi châu thể hiện qua các chuyến viếng thăm châu Phi ba tuần của Thủ tướng Chu Ân Lai và ngoại trưởng Trần Di vào đầu năm 1964. Tuy còn rất nghèo nàn nhưng đối với các phong trào du kích tại nhiều nước Á, Phi, Trung Quốc được xem như là ngọn hải đăng cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trung Quốc sử dụng lý luận cách mạng để tạo ảnh hưởng và củng cố vị trí quốc tế qua việc khuyến khích các cuộc nổi dậy võ trang dưới hình thức cách mạng nhân dân tại các quốc gia đang đấu tranh vì độc lập hay vừa được trao trả độc lập nhưng chưa ổn định. Trong thập niên 50 và đầu thập niên 60, ngoài một số vũ khí phần lớn là chế tạo rập theo khuôn mẫu của Liên-Xô, Trung Quốc là một nước lạc hậu về kinh tế kỹ thuật. Vốn liếng và võ khí mạnh nhất của Trung Quốc là lý luận cách mạng chống thực dân đế quốc.
Tại đại hội Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 9 1962, Mao nhấn mạnh sự liên hệ giữa đấu tranh giai cấp trong nước phải được tiến hành đồng thời với việc yểm trợ các cuộc tranh đấu võ trang của các nước khác. Về mặt chính trị, Trung Quốc tích cực tham gia Hội nghị Bandung lịch sử, diễn ra từ 18 đến 24 tháng Tư 1955 tại thành phố Bandung, Nam Dương và sau đó một thời gian ngắn là sự ra đời của Phong trào các Quốc gia không Liên kết.
Về mặt quân sự, các phong trào Maoist được Trung Quốc võ trang hình thành khắp nơi, không những trong các quốc gia đang là thuộc địa, các quốc gia đã được trao trả độc lập mà cả những quốc gia chưa từng bị thuộc đia. Trung Quốc huấn luyện du kích quân thuộc phong trào FRELIMO tại Mozambique, PAIGC tại Guinea, ZANU in Rhodesia (Zimbabwe), ANC tai Nam Phi. Năm 1963, Trung Quốc gởi quân dụng và vũ khí đến các lực lượng du kích đang hoạt động tại miền đông Congo dưới sự lãnh đạo của Antoine Gizenga, nguyên là một bộ trưởng trong chính phủ Lumumba, chống lại Mobutu thân Mỹ. Điểm đặc biệt, khác với Liên-Xô và Mỹ, Trung Quốc nhắm vào các mục đích đầu tư dài hạn nên võ khí tặng cho các phong trào Maoist phần lớn đều dưới hình thức cho không.
Cuối thập niên 50, lý luận “giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc” không còn hiệu quả vì phần lớn các nước đã giành được hay được trao trả độc lập, Trung Quốc chuyển hướng đấu tranh sang việc phát động phong trào chống thực dân mới và đế quốc Mỹ. Trung Quốc cảnh cáo các nước Á, Phi, độc lập chính trị chỉ là bước đầu trong tiến trình giải phóng đất nước, quan trọng là phải có độc lập về kinh tế. Một số thỏa hiệp kinh tế, dù rất tượng trưng, đã được ký kết giữa Trung Quốc và các quốc gia như Ghana, Guinea, Mali, Tanzania. Trong nội bộ phong trào cộng sản thế giới Trung Quốc tấn công vào chủ nghĩa xét lại Khrushchev.
Để chứng tỏ Trung Quốc không chỉ là một mớ lý luận và những võ khi thô sơ, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không ngần ngại thực hiện vài đề án lớn với một số nước Phi châu như trường hợp đề án đường rầy xe lửa Tanzam nối liền Zambia và bờ phía đông của Tanzania năm 1970. Đề án Tanzam được xem như là một đề án lớn nhất của Trung Quốc thời bấy giờ với kinh phí 500 triệu Dollar để xây dựng một hệ thống đường xe lửa dài 1870 kí lô mét từ Dar es Salamm đến khu vực mỏ quặng chính của Zambia. Số nhân công được sử dụng gồm 50 ngàn tuyển mộ từ Tanzania và 25 ngàn được đưa sang từ Trung Quốc. Bất chấp nắng mưa, chết chóc, 75 ngàn người đã làm việc suốt 5 năm dài, bắt 300 cầu, đào thông 23 hầm và đặt 147 trạm xe lửa. Đề án được Trung Quốc ca ngợi như một thành công vĩ đại vào năm 1975 mặc dù Trung Quốc biết cả vốn lẫn lời có thể đều không thu lại được. Trung Quốc thực hiện đề án Tanzam không nhằm theo đuổi mục đích lợi nhuận kinh tế nhưng qua đó thiết lập một đầu cầu quan trọng cho việc đổ bộ ồ ạt vào Phi châu trong đầu thiên niên kỷ này và đồng chứng tỏ cho các lãnh đạo các nước Phi châu thấy không chỉ có Mỹ hay Liên-Xô mới khả năng thực hiện các đề án lớn.
Các chính sách đổi mới kinh tế của Đặng Tiểu Bình bắt đầu thập niên 80, về mục tiêu có nhiều thay đổi, nhưng một số điểm trong chính sách đối với châu Phi thời Mao vẫn được duy trì. Giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc sử dụng và khai thác lịch sử như một vũ khí chiến lược để phục vụ cho mục tiêu bành trướng. Trung Quốc vẫn lặp đi lặp lại khẩu hiệu hợp tác hữu nghị, tình đồng chí anh em thắm thiết giữa các quốc gia cùng cảnh ngộ được như Chu Ân Lai đã tuyên bố từ Hội nghị Bandung hơn nửa thế kỷ trước, có khác chăng các lãnh tụ phiến loạn ngày xưa nay đã là những tổng thống và Trung Quốc, lãnh tụ của thế giới thứ ba nghèo khổ, nay là một siêu cường.
Các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc
Thỏa mãn nhu cầu năng lượng và nguyên liệu
Phát triển kinh tế đòi hỏi trước hết là nguyên liệu. Sự thất thoát và lãng phí nguyên vật liệu trong sản xuất đã làm nhu cầu nguyên liệu của Trung Quốc vốn đã thiếu hụt lại càng thiếu hụt trầm trọng hơn. Để đuổi kịp các nước tư bản phát triển và vượt qua những khiếm khuyết trong sử dụng nguyên liệu, giới lãnh đạo kinh tế Trung Quốc không áp dụng các phương pháp kinh doanh truyền thống mà Mỹ và các nước Tây Âu đã và đang áp dụng. Các chuyên viên đặt hàng của các công ty Trung Quốc không ngồi trong các phòng có gắn máy lạnh, trước máy vi tính và mua nguyên vật liệt từ các thị trường nguyên liệu quốc tế mà đến tận nơi, mua tận gốc và mua với giá rẻ nhất. Tệ hại hơn cả các chế độ thực dân trước đây, Trung Quốc vơ vét đủ cách, đủ kiểu, chính thức qua các hợp đồng nhà nước và không chính thức qua trung gian các công ty thầu thu mua do người bản xứ điều hành. Các công ty Trung Quốc bất chấp các nguyên tắc, luật lệ lao động và họ không quan tâm các bao quặng kia do ai đào ra, dù từ bàn tay của một phụ nữ Congo đang cõng trên lưng một đứa bé sơ sinh hay một em Adon Kalenga chỉ mới 13 tuổi.
Giải quyết nạn thặng dư dân số tại Trung Hoa lục địa
Nội dung của chủ nghĩa bành trướng thế giới của Trung Quốc không chỉ giới hạn về kinh tế mà đồng thời để giải quyết được nạn thặng dư dân số tại nội địa Trung Quốc. Dân số Trung Quốc theo thống kê tháng 7 2008 là 1 tỉ 330 triệu người. Trong 20 năm qua, việc thực thi chính sách kiểm soát dân số mỗi gia đình một con khá hữu hiệu đã giúp mức gia tăng dân số chậm lại tại mức 0.65 phần trăm mỗi năm. Nếu cứ tiếp tục duy trì chính sách hạn chế sinh đẻ như hiện nay, nghĩa là cứ hai người lớn tuổi mới có một em bé, số lượng người già trong dân số Trung Quốc theo tỉ lệ sẽ tăng nhanh hơn số lượng trẻ em. Theo các nhà phân tích dân số, nếu mức phát triển dân số không thay đổi, trong tương lai không xa Trung Quốc sẽ là một viện dưỡng lão khổng lồ.



Việc thỏa mản các nhu cầu an sinh, xã hội, y tế cho nhiều trăm triệu người già không còn khả năng lao động, là một viễn ảnh đầy lo sợ của giới lãnh đạo Trung Quốc. Theo báo Sunday Times xuất bản tại Anh số tháng Hai 2008, một chuyên viên về Trung Quốc ước lượng rằng chính phủ Trung Quốc cần phải đưa ra khỏi Trung Hoa lục địa 300 triệu người mới có thể giải quyết nạn thặng dư dân số. Đưa đi đâu? Bất cứ nơi nào, nhưng nơi di dân thích hợp nhất của thời đại ngày nay không đâu khác hơn là Phi châu đất rộng, người thưa, tài nguyên phong phú. Trung Quốc cũng tìm cách truyền bá tiếng phổ thông Trung Quốc sang các nước Phi châu. Mặc dù rất khó học, các lớp dạy tiếng Trung Quốc được mở khắp mọi nơi. Chính phủ Trung Quốc ước lượng sẽ có 100 triệu người nước ngoài, hẳn nhiên đa số sẽ từ châu Phi, nói tiếng Trung Quốc. Tại Kenya còn có một học viện mang tên Viện Khổng Tử chuyên dạy về văn hóa và ngôn ngữ Trung Quốc.



Theo phân tích của các tác giả tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (the Center for Strategic and International Studies) trong tổng kết China the Balance Sheet, Trung Quốc là một nước già, và vào giữa thế kỷ này Trung Quốc sẽ có 349 triệu cao niên. Hệ thống dưỡng lão tại Trung Quốc ngày nay vẫn còn theo kiểu con cái phụng dưỡng cha mẹ già nhưng 30 năm nữa một người trẻ phải phụng dưỡng bốn người già. Tình trạng mất cân đối giới tính trong dân số Trung Quốc cũng là một mầm mống khác cho những bất ổn xã hội tương lai. Mặc dù trên giấy tờ chính phủ Trung Quốc nghiêm cấm việc phá thai dựa theo giới tính nhưng tình trạng phá thai một cách bất nhân khi đã biết bào thai là còn gái vẫn xảy ra rất phổ biến tại Trung Quốc. Điều đó dẫn đến tình trạng trai thừa gái thiếu. Phương pháp để giải quyết tình trạng đó là mua vợ từ các nước Á châu khác.
Xuất cảng hàng hóa tiêu dùng
Không giống các quốc gia Tây phương, viện trợ và đầu tư được tính toán một cách cân đối dựa trên nhu cầu ngắn hạn và dài hạn của một quốc gia, trong đó có đầu tư về giáo dục, huấn luyện nghề nghiệp, khoa học kỹ thuật, các đầu tư của Trung Quốc nhắm nhiều nhất vào các mục đích tiêu dùng và dịch vụ như phi trường, sân vận động. Tập sang nghiên cứu China Monitor của Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc tại Congo cho rằng việc Trung Quốc xây dựng các công trình chẳng khác mang cá đến cho người dùng mà không chỉ cho họ cách để tự đánh cá.
Như một nước nông nghiệp với nhiều triệu dân là những người tỵ nạn chiến tranh vừa mới hồi cư, sản phẩm công nghiệp Congo không phải là đối thủ cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc. Đường phố Lubumbashi, thủ phủ tỉnh Katanga, là một phố Tàu lớn với các cơ sở thương mại Trung Quốc, từ các ngân hàng, các công ty lớn cho đến các nhà hàng, tiệm ăn, tiệm tạp hóa và cả tiệm thuốc bắc. Về hàng hóa, không chỉ đồng hồ, TV, radio, điện thoại mà ngay cả loại vải truyền thống nhiều màu mà phụ nữ Phi châu ưa chuộng, vốn là đặc sản Congo, cũng được may từ Trung Quốc đem sang. Ngoài việc đánh gục hàng nội địa, các công ty Trung Quốc còn cạnh tranh với cả hàng nhập cảng. Công ty điện thoại di động Congo Chinese Telecomps (CTT) bán các điện thoại phẩm chất không thua kém các công ty lớn thế giới nhưng giá rất thấp so với các sản phẩm nhập từ Mỹ hay châu Âu.
Mua chuộc và bao che cấp lãnh đạo để khai thác lâu dài
Các lãnh đạo Phi châu không phải là không biết thâm ý của Trung Quốc nhưng họ vẫn muốn hợp tác kinh tế với Trung Quốc hơn là các nước Tây phương. Như đã trình bày trong bài trước, hợp tác với Trung Quốc, các lãnh đạo Phi châu không phải bận tâm về các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền vì chính sách của Trung Quốc không can thiệp vào nội bộ của các nước khác. Trong khi các vấn đề nhân quyền đã đẩy các công ty phương Tây ra khỏi châu Phi thì Trung Quốc trở thành nước độc quyền đầu tư và khai thác kinh tế. Ngoài ra, hợp tác với Trung Quốc không phải thông qua các thủ tục, các điệu kiện phức tạp như khi vay tiền của IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế). Thảo luận hay ký kết các hợp đồng thương mại với các công ty Trung Quốc cũng chẳng khác gì ký kết với chính phủ Trung Quốc và do đó không cần phải thông qua sự chấp thuận của chính phủ hay quốc hội, nếu có cũng chỉ là vấn đề thủ tục. Trung Quốc ưu đãi, bao che và nếu cần sẽ sẵn sàng tiếp tay cho giới lãnh đạo để đàn áp các thành phần đối lập, các tầng lớp nhân dân. Giống như chế độ thực dân đế quốc trước đây, Trung Quốc nuôi dưỡng, bao che, cung cấp cho giới lãnh đạo Phi châu tiền bạc, súng đạn, an ninh cá nhân và bảo vệ chế độ bằng sử dụng quyền phủ quyết trong các cơ quan quốc tế như Liên Hiệp Quốc.
Trung Quốc và Congo
Riêng với Congo, năm 1964, Mao Trạch Đông đã tuyên bố “Nếu chúng ta có được Congo, chúng ta sẽ có được cả Phi châu”. Về mặt lịch sử, người Trung Quốc có mặt ở Congo từ lâu lắm. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích người Trung Quốc có mặt tại Phi châu từ thế kỷ thứ sáu. Trong thế kỷ 18, thời kỳ vua Leopold cai trị Congo, nhiều ngàn người Hoa đã bị đưa tới để làm đường rầy xe lửa. Đa số đã bị chết vì đói khát hay kiệt sức lao động, một số ít sống sót đã chạy về các thành phố. Tức khắc sau khi Bỉ trao trả độc lập cho Congo, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã gởi điện văn chúc mừng Thủ tướng Lumumba và công nhận Congo độc lập. Tuy nhiên hai quốc gia sau đó đã có xung đột ngoại giao khi Tổng thống Kasavubu thiết lập quan hệ ngoại giao với Đài Loan. Để trả đũa, Trung Quốc gởi võ khí cho quân đội của Gizenga đang chống lại chính quyền Congo trung ương của Kasavubu và Mobutu.
Sau khi loại bỏ Tổng thống Kasavubu, siết chặt quyền lãnh đạo tại Congo, Mobutu bắt đầu có có tham vọng lănh đạo cả lục địa Phi châu. Để làm được điều đó nhà độc tài xứ Congo cần phải hòa hoãn với Trung Quốc, quốc gia có ảnh hưởng nhất trong Phong trào các Quốc gia không Liên kết. Congo và Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 1972. Cũng trong năm này, Mobutu công nhận đàn em thân tín của Trung Quốc là Bắc Hàn. Mobutu thăm Trung Quốc 5 lần trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1994. Đáp lại, từ 1973, các lãnh đạo đảng và nhà nước Trung Quốc viếng thăm Congo, đầu tiên với Ngoại trưởng Hoàng Hoa thăm Congo 1978, đến phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm đến Congo 1979. Trung Quốc nắm lấy cơ hội các quốc gia dân chủ Tây phương và Mỹ dưới thời Tổng thống Jimmy Carter bắt đầu tẩy chay chế độ độc tài Mobutu để gây ảnh hưởng với Mobutu. Năm 1983, Trung Quốc tuyên bố hủy bỏ số nợ 100 triệu Dollar Congo đã vay của Trung Quốc, ngoài ra còn gởi khoảng 1 ngàn chuyên viên Trung Quốc sang làm việc trong các đề án nông và lâm nghiệp tại Congo.
Khi nhà độc tài Mobutu bị Laurent-Desire Kabila lật đổ, quan hệ hai quốc gia chẳng những không gián đoạn mà còn được củng cố vững chắc thêm. Quan hệ giữa Tổng thống Laurent-Desire Kabila và Bắc Kinh không chỉ là quan hệ giữa hai nước mà còn là quan hệ đồng chí anh em vì Laurent-Desire Kabila vốn là một nhà Maoist và đã từng được Mao yểm trợ võ khí khi còn ở trong rừng. Chỉ một thời gian ngắn sau khi lật đổ Mobutu, Tổng thống Congo Laurent-Desire Kabila lên đường viếng thăm Bắc Kinh. Khi Laurent-Desire Kabila bị ám sát, con trai của ông ta lên làm Tổng thống cũng đã thăm Trung Quốc để xin viện trợ, và đổi lại Trung Quốc được hưởng nhiều đặc quyền khai thác quặng mỏ, nhất là đồng và cobalt. Trung Quốc bắt đầu xây dựng hệ thống đường sá, khách sạn, phi trường, nhà máy điện, cơ sở giáo dục cho Congo, cũng như khai thác gỗ và dần dần lan đến các đề án nông nghiệp, ngay cả cà-phê, đường, cây trái.
Cuối tháng 9 2007, Trung Quốc ký với Congo một hợp đồng được xem là lớn nhất từ trước đến nay với một quốc gia Phi châu. Tổng giá trị của hợp đồng lên đến 9.25 tỉ Dollar. Ngân hàng Xuất nhập Cảng Trung Quốc Exim (Export-Import Bank of China) đã đồng ý cho Congo vay để tân trang hệ thống đường sá tại Congo. Đổi lại, Trung Quốc được quyền khai thác 10.6 triệu tấn đồng và 626,619 tấn cobalt. Theo nội dung của hiệp ước khai thác quặng, được đàm phán tại Bắc Kinh giữa luật sư Pual Fortin thay mặt cho công ty quốc doanh Gecamines của Congo và chính phủ Trung Quốc, số tiền sẽ được chi thành 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 3 năm phù hợp với tiến trình xây dựng và khai thác quặng mỏ. Sau thời gian 10 năm, vai trò độc quyền của Trung Quốc sẽ chấm dứt và hai quốc gia sẽ hợp tác với 2 phần 3 thuộc về Trung Quốc và 1 phần 3 thuộc về Congo, để tiếp tục khai thác quặng mỏ. Hiệp ước đã được Quốc hội Congo chấp thuận tháng 5 năm 2008
Một số nhà phân tích cho rằng đây là một hiệp ước hai bên cùng có lợi vì Congo sẽ có một số cơ sở xây dựng mà họ chưa từng có như Tổng thống Joseph Kabila tuyên bố: “Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Congo có thể thấy những quặng đồng, kẽm của Congo đem về những kết quả tốt”. Tuy nhiên theo luật sư Georges Kapiamba, một trong số ít người đọc được nội dung của thỏa hiệp, cho rằng thỏa hiệp ký kết vào năm 2008 cũng chẳng khác gì “thỏa hiệp” mà Congo phải ký dưới thời vua Leopold đệ nhị của Bỉ. Cộng hòa Dân chủ Congo, trên thực tế sẽ bị thực dân hóa lần nữa. Có khác chăng, vua Leopold chưa bao giờ đặt chân đến Congo nhưng người Hoa sẽ tràn ngập Congo. Congo sẽ được Trung Quốc xây dựng 176 bịnh viện, hai trường đại học, một cảng, 500 chung cư. Đó là những công trình xây dựng lớn, tuy nhiên so sánh giữa gì sẽ nhận về và những gì sẽ mất đi, Congo sẽ bị thiệt hại nhiều hơn. Đừng nói gì đến chủ quyền đất nước và tài nguyên thiên nhiên, chỉ riêng về thu nhập tiền lời, với giá quặng mỏ vẫn còn cao, các nhà phân tích ước lượng, sau thời hạn 10 năm Trung Quốc sẽ thu lại từ 42 tỉ Dollar đến 90 tỉ Dollar
Trung Quốc trong vai trò thực dân của họ, hơn ai hết mong được thấy một Cộng hòa Dân chủ Congo ổn định để khai thác tài nguyên của quốc gia này, nhưng liệu ước muốn đó có là một hiện thực hay không là điều khó ai biết trước. Lịch sử đã chứng minh Mỹ, Pháp, Anh không bao giờ nhường Phi châu cho Trung Quốc một cách dễ dàng. Khi thỏa hiệp được trình lên Quốc hội Congo tháng 5 2008, 105 nghị sĩ thuộc các đảng đối lập Congo đã bước ra khỏi phòng để phản đối. Tháng 10 2008, lực lượng Tutsi dưới quyền của tướng Laurent Nkunda đánh bại các lực lượng chính phủ Cộng hòa Dân chủ Congo và có ý định tiến về phía khu hầm mỏ Congo. Tướng Nkunda tuyên bố một trong những điều kiện đàm phán giữa ông ta và chính phủ của Tổng thống Joseph Kabila là Congo phải hủy bỏ hiệp ước 9 tỉ Dollar với Trung Quốc. Mặc dù tướng Nkunda vừa bị bắt cách đây 3 tháng nhưng các thành phần chống chính phủ vẫn còn rất mạnh. Thỏa hiệp kinh tế 9 tỉ Dollar vì thế đã trở thành con tin cho cuộc tranh chấp giữa nhiều phe phái. Máu có thể sẽ đổ lần nữa trên đất Congo và giống như hàng trăm năm qua, giọt máu đầu tiên hay cuối cùng cũng chỉ là máu của nhân dân Congo vô tội.



Và Việt Nam?

Bên cạnh nhiều điểm khác nhau về mức độ phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, địa lý chính trị, hai dân tộc Congo và Việt Nam có chung nhiều điểm bất hạnh giống nhau. Cobalt Congo và Bauxite Việt Nam đều là bước đầu của chủ nghĩa bành trướng của thực dân đỏ Trung Quốc, và viễn ảnh đen tối bị lệ thuộc lâu dài vào Trung Quốc là điều có thực. Giống như Congo, dân tộc Việt Nam cũng trải qua một cuộc chiến tranh dài, với số người chết gần bằng nhau, và cả hai dân tộc đều nằm dưới sự cai trị của một giới lãnh đạo tự nguyện đặt mình dưới sự bảo hộ của Trung Quốc. Bởi vì, chỉ có cộng sản Trung Quốc mới làm ngơ trước các hành động bỏ tù, tra tấn, chặt tay, bịt miệng người dân, chỉ có cộng sản Trung Quốc mới im lặng khi giới cầm quyền sống xa hoa, phung phí trên máu xương, mồ hôi nước mắt của nhân dân, và chỉ núp dưới bóng của cộng sản Trung Quốc giới lãnh đạo có mới thể kéo dài quyền cai trị đất nước. Giống như Congo, Việt Nam cũng có tài nguyên phong phú, nhân lực dồi dào, lẽ ra hôm nay đã thành một con rồng, con phụng ở Á châu, nhưng không, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo về kinh tế và có một cơ chế chính trị còn lạc hậu hơn cả Congo.
Dân tộc Việt Nam, sau 34 năm nguyền rủa, van xin, đánh thức lương tâm của giới lãnh đạo cộng sản bằng bao nhiêu bức tâm thư, bao nhiêu lời thỉnh nguyện. Tất cả chỉ là những giọt nước rơi vào biển cả, không tạo được âm vang, không gây nên chút sóng. Đảng Cộng sản đã chọn lựa cho họ một con đường riêng để tồn tại thì dân tộc Việt Nam cũng phải biết đứng lên để thay đổi vận mệnh của chính mình. Lịch sử nhân loại chứng minh, những kẻ độc tài thường không bước xuống theo nguyện vọng nhân dân, họ chỉ chết già trong quyền lực hay bị lật đổ.
Tham khảo



Richard Dowden, Africa, Altered States, Ordinary Miracles, Public Affairs, New York 2008
Adam Hochschild, King Leopold’s Ghost: A Story of Greed, Terror, and Heroism in Colonial Africa, Mariner Books 1999.
Arthur Conan Doyle, The Crime of the Congo, London Hutchinson & Co, 1909
Martin Meredith, The Fate of Africa, Public Affairs 2005
Princeton Lyman, Director of Africa Policy Studies, Council on Foreign Relation, China’s Rising Role in Africa, July 2005 Center for Strategic and International Studies and the Peter G. Peterson Institute for International Economics, China: The Balance Sheet, Public Affairs 2007
David Pugh, Chinese Foreign Policy during the Maoist Era and its Lessons for Today
Peter Hitchens, How China has created a new slave empire in Africa, Mail 28th September 2008
Wenran Jiang, Chinese Inroads in DR Congo: A Chinese “Marshall Plan” or Business?, The Jamestown Foundation, Jan 12 2009
Amb David H. Shinn, China’s Relations with Zimbabwe, Sudan, and the Democratic Republic of the Congo
Hannah Edinger & Johanna Jansson, Center for Chinese Studies, China and the Democratic Republic of Congo:Partners in Development? October 2008



Simon Clark, Michael Smith and Franz Wild, China Lets Child Workers Die Digging in Congo Mines for Copper, Bloomberg, July 22 2008.
Richard Behar, Mineral Wealth of the Congo, June 1 2008
F William Engdahl, China’s US$9bn hostage in the Congo war, Asia Times, Dec 2 2008
Jon Swain, Africa, China’s new frontier Time, February, 10 2008Hình ảnh từ mục chinaafrica của website paolowoods.net

Trần Trung Đạo

Thường trực Ban Bí thư thăm dự án bô-xít Nhân Cơ

Thường trực Ban Bí thư thăm dự án bô-xít Nhân Cơ


Cập nhật lúc 00:53, Thứ Hai, 26/10/2009 (GMT+7)
Trong chuyến đi thực tế dự án khai thác bô-xít tại khu công nghiệp alumin Nhân Cơ (Đắk Nông) ngày 24/10, Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang yêu cầu chủ đầu tư phải xử lý triệt để chất bùn đỏ.

>> Đại dự án bô-xít Tây Nguyên và ý kiến nhiều chiều
Ảnh: TTXVN

Ông Sang yêu cầu chủ đầu tư - Công ty cổ phần alumin Nhân Cơ thuộc Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam - khai thác chế biến bô-xít phải đạt hiệu quả kinh tế gắn với bảo đảm môi trường, đặc biệt là phải xử lý triệt để chất bùn đỏ.

Mặt khác, chủ đầu tư phải làm tốt công tác đền bù, giải tỏa và tái định cư cho người dân trong vùng dự án. Khi dự án đi vào hoạt động, phải ưu tiên tuyển dụng, đào tạo và sử dụng lao động địa phương, đặc biệt là người dân tộc thiểu số.

Tiếp đó, làm việc với lãnh đạo tỉnh Đắk Nông, ông Trương Tấn Sang đã biểu dương những cố gắng của đảng bộ và chính quyền tỉnh Đắk Nông chủ động vượt qua nhiều khó khăn, đạt những thành tích đáng khích lệ.

Đời sống vật chất và tinh thần người dân trong tỉnh không ngừng được nâng cao; kinh tế - xã hội ngày một phát triển, cơ sở hạ tầng được cải thiện; an ninh chính trị, trật tự xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và vùng đồng bào dân tộc thiểu số được giữ vững...

Ông Sang nhấn mạnh tỉnh cần làm tốt công tác quy hoạch đô thị Gia Nghĩa thành một đô thị sinh thái, mang bản sắc đô thị Tây Nguyên; chú trọng quy hoạch những vùng kinh tế về nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp và coi trọng phát triển kinh tế rừng.

"Việc phát triển kinh tế phải theo chiều sâu, tăng giá trị sản phẩm từ nông sản đến sản phẩm công nghiệp theo hướng tinh chế, tránh xuất khẩu nguyên liệu thô", ông Trương Tấn Sang nhấn mạnh.

Cũng theo Thường trực Ban Bí thư, tỉnh cần thực hiện nhiều chính sách hấp dẫn để thu hút nhà đầu tư trong, ngoài nước đến đầu tư, khai thác nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng của địa phương.

Theo TTXVN

Nhà máy Alumin Nhân Cơ: Tuyển lao động bị thu hồi đất

Cập nhật lúc 20:29, Thứ Sáu, 04/09/2009 (GMT+7)
Làm việc với Công ty cổ phần Alumin Nhân Cơ (huyện Đăk Rlấp, tỉnh Đắk Nông) sáng 4/9, Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng yêu cầu Công ty thực hiện hiệu quả chủ trương tuyển dụng, đào tạo và sử dụng nguồn lao động tại chỗ, trong đó ưu tiên người lao động thuộc những hộ dân đã bị thu hồi đất trong quá trình giải phóng mặt bằng.

>> Đại dự án bô-xít Tây Nguyên và ý kiến nhiều chiều

Phó Thủ tướng nêu rõ, phát triển ngành công nghiệp khai thác bô-xít, sản xuất alumin - nhôm là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đưa Tây Nguyên từ một khu vực kém phát triển thành vùng phát triển phồn thịnh, mang lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc.
Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng thăm Công ty cổ phần Alumin Nhân Cơ. Ảnh: Chinhphu.vn

Ông Trương Vĩnh Trọng đặc biệt lưu ý lãnh đạo Công ty cổ phần Alumin Nhân Cơ phải "luôn tuân thủ chặt chẽ các giải pháp bảo vệ môi trường, nghiên cứu kỹ các báo cáo tác động đối với môi trường" trong quá trình triển khai và đưa dự án vào hoạt động; chú trọng đầu tư thiết bị hiện đại trong đó tập trung xây dựng hệ thống giám sát thường xuyên về khí, bụi, chất thải, nước thải… nhằm "đánh giá chính xác và có giải pháp xử lý" đối với các tác nhân gây ô nhiễm trong quá trình vận hành nhà máy.
Bên cạnh đó, Công ty cần thực hiện hiệu quả chủ trương tuyển dụng, đào tạo và sử dụng nguồn lao động tại chỗ, trong đó ưu tiên người lao động thuộc những hộ dân đã bị thu hồi đất trong quá trình giải phóng mặt bằng xây dựng dự án.

Theo Giám đốc Công ty cổ phần Alumin Nhân Cơ Bùi Quang Tiến, dự án cần lực lượng lao động dự kiến từ 1.600-1.700 người, bao gồm công nhân kỹ thuật vận hành tổ hợp và công nhân khai thác bô-xít.

Đợt 1 vừa qua, Công ty đã ký hợp đồng với một số trường cao đẳng, trường đào tạo công nhân kỹ thuật tuyển dụng được 317 lao động, chủ yếu là người của tỉnh Đắk Nông.
Hiện nay, Công ty đang xét đào tạo công nhân kỹ thuật đợt 2, dự kiến sẽ tuyển dụng và đào tạo khoảng trên 450 lao động, trong đó ưu tiên gần 100 chỉ tiêu là con em bà con dân tộc thiểu số tại địa phương.

Dự án Nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ bao gồm tổ hợp nhà máy tuyển quặng bô-xít và Nhà máy Alumin sẽ khai thác quặng bô-xít tại mỏ bô-xít Nhân Cơ có diện tích trên 280 km2, trữ lượng quặng tinh ước tính khoảng 450 triệu tấn; công suất thiết kế của nhà máy khoảng 650.000 tấn alumin/năm.

Nhà máy Alumin Nhân Cơ dự kiến sẽ chính thức đi vào hoạt động vào năm 2011.

Theo Cổng TTĐT Chính phủ

Quan điểm của Viện Nghiên cứu PT về Khai Thác Bauxite

Quan điểm của Viện Nghiên cứu PT về Khai Thác Bauxite


Nhã Trân, phóng viên RFA-Bangkok 2009-04-06

Chủ trương của chính phủ Viễt Nam, chấp thuận cho Trung Quốc khai thác bauxite ở vùng Tây Nguyên, đang gây nhiều quan ngại cho các nhà trí thức và giới chuyên môn vì những hệ quả của việc đó.
Courtesy of MienTrung.com
Tây Nguyên là thượng nguồn của nhiều con sông. Sự ô nhiễm môi trường của con sông ở vùng đó sẽ lan xuống miền Trung, Đồng Nai, rồi miền Đông Nam Bộ.

Viện Nghiên cứu Phát triển IDS ở Hà Nội mới đây nêu lên quan điểm của mình qua trao đổi của Tiến sĩ Nguyễn Quang A với Nhã Trân.

Ô nhiễm nặng nề, kinh tế không có lợi

Ts Nguyễn Quang A: Chúng tôi tin rằng khai thác một vùng quan trọng như vùng Tây Nguyên thì phải tính đến độ bền vững của sự phát triển. Và, khai thác bauxite trong thời điểm này không có lợi. Xét về mọi khía cạnh thì dự án này là một dự án không tốt. Xét về mặt môi trường, dự án này có thể gây ô nhiễm môi trường rất là nặng nề. Xét về mặt kinh tế thì dự án này không có lợi, không có hiệu quả kinh tế.

Xét về mặt môi trường, dự án này có thể gây ô nhiễm môi trường rất là nặng nề. Xét về mặt kinh tế thì dự án này không có lợi, không có hiệu quả kinh tế.

TS.Nguyễn Quang A

Nhã Trân: Thưa Ts, Viện Nghiên cứu Phát triển đã dựa trên những cơ sở nào mà có kết luận như vậy về vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên?

Ts Nguyễn Quang A: Chúng tôi tuy không nghiên cứu chi tiết dự án này nhưng các nhà nghiên cứu của IDS bằng cách này hoặc cách kia có tham gia vào khảo sát, nhất là anh Nguyễn Trung và anh Nguyên Ngọc.

Nhã Trân: Vâng. Trước hết Ts có thể cho biết ý kiến của Viện Nghiên cứu Phát triển về những tác hại đến môi trường trong việc khai thác bauxite ở vùng Tây Nguyên?

Ts Nguyễn Quang A: Nói đến vấn đề môi trường thì khai thác bauxite ảnh hưởng đến môi trường vùng đó, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân vùng đó. Đầu tiên là vấn đề nguồn nước. Bản thân nước ở Tây Nguyên vốn lâu nay không phải là nhiều. Thế mà bây giờ lại lấy nguồn nước đó để mà khai thác bauxite !

Và một điều hết sức quan trọng là, đó là thượng nguồn, và là thượng nguồn của nhiều con sông. Sự ô nhiễm môi trường của con sông ở vùng đó như vậy sẽ lan xuống các vùng quan trọng khác như là miền Trung, Đồng Nai, rồi miền Đông Nam Bộ.

Bản thân nước ở Tây Nguyên vốn lâu nay không phải là nhiều. Thế mà bây giờ lại lấy nguồn nước đó để mà khai thác bauxite ! Và một điều hết sức quan trọng là, đó là thượng nguồn, và là thượng nguồn của nhiều con sông. Sự ô nhiễm môi trường của con sông ở vùng đó như vậy sẽ lan xuống các vùng quan trọng khác như là miền Trung, Đồng Nai, rồi miền Đông Nam Bộ.

TS.Nguyễn Quang A

Đó là vấn đề về nước. Rồi tới vấn vấn đền bùn đỏ. Vấn đề bùn đỏ thì xử lý như thế nào? Theo chúng tôi biết thì cái cách xử lý bùn đỏ ở Tây Nguyên là một công nghệ môi sinh không phải là tốt. Chất thải của bùn đỏ có thể gây nhiều ô nhiễm môi trường. Rồi vùng Tây Nguyên có một mùa khô và một mùa mưa. Trong thời gian mùa khô thì chất thải đó có thể gây ô nhiễm rất là lớn. Và nếu mà không xử lý tốt thì cái bùn đỏ này có thể ảnh hưởng lớn đến môi trường.

Nhã Trân: Thế còn xét về mặt kinh tế, việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên liệu có giá trị kinh tế mà chính phủ Việt Nam mong đợi?

Ts Nguyễn Quang A:

Về kinh tế thì chúng tôi không mong đợi. Khai thác bauxite từ dưới lòng đất rồi chế biến sơ sơ rồi mang bán thì chúng tôi nghĩ là không được giá. Rồi trong thời gian tới cũng không có đủ để mà làm nhôm. Như vậy chỉ có thể bán được alumina. Mà thị trường của alumina là một thị trường không phải là lớn, không phải là một thị trường tương đối là dồi dào, cho nên việc bán không dễ. Muốn chuyển alumina ra cảng để có thể xuất khẩu được thì cần phải mở rộng đường, hay là xây một cái tuyến đường sắt riêng cho việc này chẳng hạ. Đầu tư vào một tuyến đường sắt như thế,và chủ yếu chỉ để phục vụ cho việc khai thác bauxite thì quá tốn phí.

TS.Nguyễn Quang A

Mà cái giá trị mà alumina có thể bán được, cái giá trị gia tăng mà Việt Nam có thể đưa them thêm vào, không phải là lớn. Về mặt kinh tế là thế.

Nhưng mà còn có một cái khó hơn nữa, là từ vùng Tây Nguyên xuống đến cảng có một đọan rất là dài, hiện bây giờ đường đi tuy là có nhưng mà di chuyển thì rất là khó khăn. Muốn chuyển alumina ra cảng để có thể xuất khẩu được thì cần phải mở rộng đường, hay là xây một cái tuyến đường sắt riêng cho việc này chẳng hạ. Đầu tư vào một tuyến đường sắt như thế,và chủ yếu chỉ để phục vụ cho việc khai thác bauxite thì quá tốn phí.

Bất lợi về an ninh chính trị

Nhã Trân: Ngoài những hệ lụy về vấn đề môi trường cũng như cái giá trị thật sự về mặt kinh tế, việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên hiện còn gây nên một mối quan ngại liên quan lãnh vực ngoại giao/chính trị/quân sự v.v... Viện Nghiên cứu Phát triển có ý kiến gì không trước những quan ngại này của công luận?

Ts Nguyễn Quang A: Tôi nghĩ cái đấy cũng là một điểm chắc chắn cần lưu tâm bởi vì người ta lý giải là khai thác bauxite sẽ tạo ra công ăn việc làm cho bà con, v.v... và v.v... Nhưng mà thật sự nếu mà từ nguyên vật liệu, từ công nhân không có tay nghề gì cả, chỉ làm những việc rất là bình thường mà người ta cũng đưa từ nước ngoài vào thì đấy cũng là một điểm rất là đáng lưu ý.

Nhưng mà thật sự nếu mà từ nguyên vật liệu, từ công nhân không có tay nghề gì cả, chỉ làm những việc rất là bình thường mà người ta cũng đưa từ nước ngoài vào thì đấy cũng là một điểm rất là đáng lưu ý.

TS.Nguyễn Quang A

Tôi nghĩ đó là mối quan tâm rất là lớn của dư luận ở VN và chúng tôi cũng chia sẻ những mối quan tâm đó về mặt an ninh quốc gia, về mặt chính trị và nhiều thứ khác nữa, tuy chúng tôi không đi sâu vào vấn đề này bởi vì chúng tôi không phải là những người chuyên môn về lãnh vực đó.

Nhã Trân: Thưa như vậy theo quan điểm của Viện Nghiên cứu Phát triển IDS, nếu dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên đã không có giá trị về mặt kinh tế mà lại có những tác hại nghiêm trọng như vậy đến môi trường đồng thời lại còn gây ra một số hệ lụy khác chẳng hạn như đến vấn đề an ninh quốc gia v.v... thì phải chăng khai thác bauxite là một điều lợi bất cập hại?

Ts Nguyễn Quang A: Đúng như vậy. Cái dự án bauxite nên dừng lại, hoặc nếu mà không thể dừng được vì những lý do này kia thì phải làm hạn chế ở cái qui mô thử nghiệm chứ không nên mở rộng ra nhiều.

Chính phủ nên làm sao để bảo tồn cái thiên nhiên, bảo tồn cái văn hoá của vùng Tây Nguyên. Còn bản thân cái bauxite thì có thể để lại cho con cháu đời sau. Có thể lúc đó công nghệ sẽ phát triển khác đi và có những giải pháp có thể xử lý được những vấn đề về môi trường, có thể mang lại được hiệu quả kinh tế cao hơn.

Nếu mà làm như thế thì có trách nhiệm hơn với đời sau, với con cháu.

Phóng sự đặc biệt: Cận cảnh Bô xít Nhân Cơ

Phóng sự đặc biệt: Cận cảnh Bô xít Nhân Cơ


Chuyến xe đò cuối cùng đưa chúng tôi đến Đắc Nông lúc trời chạng vạng tối, khung cảnh của nóc nhà Đông Dương đây sao? Có một vẻ gì đó trầm mặc, u uất làm những cư dân trẻ của Sài Gòn chúng tôi bỡ ngỡ. Bên đường là những cánh rừng trơ trụi, những ngọn đồi trọc chơ vơ thoắt ẩn hiện trong bầu trời nhá nhem.
Bây giờ đang là những ngày đầu tháng tư, Đắc Nông phơi bày một vẻ ngổn ngang giống như một đại công trường đang thi công cẩu thả. Dọc theo quốc lộ 14, đâu đâu cũng thấy sự bừa bộn bởi nạn đào bới và san lấp. Hai bên đường, những lớp đất đá khô cằn vừa bị cày bật lên. Người ta đang làm một con đường rất lớn để phục vụ cho những đoàn xe tải rầm rộ chạy hối hả ngày đêm. Thiên nhiên đang bị những bàn tay thô bạo của con người tàn phá...
Trụ sở Công ty Cổ Phần Alumin Nhân Cơ - nơi được giao dự án thăm dò & khai thác Bauxit
Xuống xe ở thị xã Nhân Cơ, trời tối mịt. Chúng tôi ghé tìm nhà dân xin ngủ lại qua đêm. Những ngày này, nghe nói tình hình Đắc Nông khá căng thẳng, đặc biệt tại xã Nhân Cơ - nơi dự án Bô-xít đang được triển khai. Vì là những người lạ, nên đi đến đâu chúng tôi cũng bắt gặp những ánh mắt dõi theo, những cái nhìn không hiểu vì tò mò hay dò xét. Trước khi đến đây, tôi cũng đã nghe nhiều lời cảnh báo từ bạn bè về một vùng đất - nơi người dân luôn được tuyên truyền phải "đề cao cảnh giác", "tố giác tội phạm", và "chống kẻ địch"...
Đội thăm dò Bauxite nằm ngay gần đó, nhưng không cho ai đặt chân vào
Toàn cảnh công trường xây dựng nhà máy rộng 200 ha, có thể quan sát thấy từ xa
Cơn mưa bắt đầu nhỏ hạt, chúng tôi tìm được nhà một người dân tốt bụng cho tá túc qua đêm. Khi cơn mưa nhẹ trái mùa chấm dứt, hơi đất bốc lên, một mùi hương đằm thắm nồng nàn.
Cách quốc lộ 14 vài trăm mét chúng tôi thấy một công trường đèn điện sáng quắc với những ánh đèn xe tải qua lại nhộn nhịp. Hỏi ra mới biết, chúng tôi đang đứng rất gần nơi dự án Bô-xít đang được triển khai. Nghe kể lại rằng, có lúc công trường hoạt động gấp rút cả ngày lẫn đêm cho kịp tiến độ. Khi ấy, người dân quanh đây không đêm nào ngủ được bởi tiếng ồn của máy ủi đất, xe tải nặng.... Nhà cửa cứ rung rinh khi có từng đoàn xe tải chở đất đá đi qua.
Cả cái hồ nước này, và những vùng xung quanh sẽ được quy hoạch làm hồ chứa bùn đỏ và nước thải Bauxite rộng đến 300 ha. "Quả bom bùn triệu tấn" sẽ được đặt ở đây
Đêm xuống, khí lạnh từ cao nguyên tràn về, chúng tôi thiếp đi vì mệt mỏi sau chuyến đi khá gian khổ vì xe đò nhồi nhét quá nhiều người.
Ánh nắng ban mai rọi vào làm căn nhà gỗ sáng rực, chúng tôi cũng lần lượt thức giấc. Buổi sáng Tây Nguyên thật tuyệt, bầu trời trong xanh, nắng dịu. Đứng ngay vị trí đêm qua, chúng tôi ngước nhìn về phía công trường cách chừng nửa cây số. Dưới ánh sáng ban ngày, hiện ra cả một vùng đất đỏ rộng lớn bị san bằng, trơ trụi và lạc lõng, bao quanh là ít mảng xanh còn xót lại. Từng chuyến xe tải qua lại thực hiện nốt những công đoạn cuối cùng của quá trình san lấp. Đứng từ xa, có thể thấy được sự quy mô của công trình. Chỉ còn vài ngày nữa, người ta sẽ khởi công xây dựng trên đó một nhà máy luyện Ocid Nhôm rất lớn, có thể hết năm nay sẽ đi vào hoạt động.
Tạm biệt người chủ nhà tốt bụng, chúng tôi đi bộ ra chợ Nhân Cơ (huyện Đăk Rlấp). Mặc dù là trung tâm thị xã, nhưng đời sống của người dân không có vẻ sung túc. Chi phí sinh hoạt cũng khá đắt đỏ so với thu nhập bình quân đầu người. Ở đây, họ sống chủ yếu bằng nghề trồng tiêu, trồng cafe... Không biết mai này, khi đất đai trồng trọt không còn, họ sẽ sống ra sao?

Công trường xây dựng nhìn gần
Ghé chân tại một quán nước đông đúc ven đường, chúng tôi chia nhau bắt chuyện với những người dân địa phương. Vượt qua sự nghi ngại ban đầu, người dân nơi đây dễ dàng cởi mở cùng bạn. Họ nói chuyện một cách hồn nhiên, vui vẻ và sẵn sàng trả lời những thắc mắc của bạn. Ở đây, hiếm thấy ai dùng từ "Bô - xít", mà thay vào đó là từ "Alumin" hoặc "quặng nhôm", có lẽ trong quá trình tuyên truyền, chính quyền địa phương cảm thấy "kỵ húy" với từ Bô-xít chăng ?
Theo lơi tường thuật của người dân, công trường phía bên kia thuộc Công ty CP Alumin Nhân Cơ, được tiến hành xây dựng đã 3 năm nay. Chính quyền địa phương đã giải tỏa hàng trăm hộ dân để lấy đất phục vụ cho dự án xây dựng nhà máy rộng 500 ha này. Rồi đây, khi chính thức đi vào hoạt động, có lẽ cả vùng Nhân Cơ cũng như toàn tỉnh Đắc Nông này sẽ biến thành một đại công trường ngổn ngang và ô nhiễm.
Đứng từ con đường đang thi công nhìn vào, thấy một vùng đất bị san bằng hiện rõ
- "Sống không được thì bỏ đi chỗ khác thôi, mình là dân mà, ô nhiễm thì cho mấy ông nhà nước ở với nhau", một bác xe ôm cười buồn nói tiếp "Nói thiệt, tui bỏ quê lên đây rồi, giờ nó đuổi chẳng biết đi đâu".
- Một anh thanh niên khác lớn tiếng "ĐM, nó hứa xây nhà máy bự để cho mình có công ăn việc làm, rốt cuộc toàn cha con tụi nó làm với nhau", hóa ra anh này đã xin vào làm công nhân khai thác Bô-xít, nhưng không được nhận. Nghe kể, có thời gian nhà máy tuyển công nhân để đào tạo, bán ra trên 2.000 hồ sơ, mỗi hồ sơ chỉ vỏn vẹn vài tờ giấy mà đội giá lên đến 50.000 đồng/hồ sơ, cuối cùng chỉ nhận khoảng 400 công nhân là chỗ thân quen được gửi gắm vào. Được biết, khá đông con cái cán bộ địa phương cũng được cử sang Trung Quốc đào tạo tay nghề bằng ngân sách nhà nước.
"Thôi, cứ lo miếng cháo qua ngày đã, tới đâu hay tới đó". Những người khác đồng tình bằng cách lặng im. Có lẽ, nỗi lo cơm áo gạo tiền đã làm mất dần ý thức phản kháng của họ. Không biết nói gì thêm, chúng tôi cùng im lặng, ánh mắt mọi người hướng về phía bên kia con đường, lâu lâu có vài gã chuyên gia Trung Quốc nghênh ngang đi qua, đưa đôi mắt xấc xược nhìn vào...
Rời khỏi quán, chúng tôi rẽ về phía công trường ngay gần đó. Con đường dẫn vào nhà máy vẫn chưa làm xong,còn ngổn ngang bừa bộn. Đứng ở con đường này mới có được cái nhìn bao quát về vùng đất phía bên kia, nơi đang oằn mình vì đào xới. Trước mắt là cả một vùng đất rộng đến 200 ha bị san phẳng, màu đất đỏ rực lên trong cái nắng chói chang, nhìn vô duyên, lạc lõng với khung cảnh Tây Nguyên đồi núi chập chùng.
Đâu đó vẫn có cảm giác yên bình của buổi trưa hè, tiếng ve lao xao, rạo rực....
Đâu đó vẫn thấy sự sống hiền hòa quanh đây
Vẫn còn nhìn thấy màu xanh của những vườn cafe, những trảng cỏ dại... nằm rải rác xung quanh, như đang thoi thóp vì cô quạnh. Vài nóc nhà thấp tè lọt thỏm trong mảng xanh hiếm hoi còn xót lại, nghe nói đó là những hộ dân chưa chịu di dời vì không chấp nhận giá đền bù quá rẻ mạt. Có lẽ họ cũng sớm di dời nay mai, vì mảnh đất đó sẽ bị người ta biến thành vùng hồ chứa bùn đỏ ô nhiễm.
Theo quy hoạch, hồ chứa này rộng đến 300 ha, hàng năm người ta thải ra đây khối lượng lên đến 11 triệu tấn bùn đỏ và nước thải. Khi ấy, "quả bom bùn triệu tấn" cứ treo lơ lửng trên đầu cả vài chục triệu người miền Nam dưới đồng bằng, hạ lưu các con song bắt nguồn từ Tây Nguyên này. Còn với người dân quanh đây, có cố gắng bám trụ thì đất của họ cũng chỉ là vùng đất chết mà thôi.
Cận cảnh công trường xây dựng, những cái lán trại tạm bợ này là nhà ở của Công nhân đào đất Việt Nam, nằm sâu trong khu vực nhà máy
Khổ thì chỉ có người dân là khổ, còn cán bộ địa phương thì giàu lên thấy rõ. Khi vừa nghe tin dự án Bauxit sẽ được triển khai, cán bộ ùn ùn kéo nhau đi mua đất. Nhà gỗ, nhà gạch mọc lên như nấm, có người làm một lúc cả chục căn nhà. Rồi cây cối cũng mọc lên theo, có nơi hàng chục ngàn cây được trồng với mật độ cách nhau chỉ 10-15cm/cây (???). Chỉ trong một đêm, đất nông nghiệp được biến thành đất thổ cư, có sổ đỏ đàng hoàng. Xây cất xong, cứ bỏ hoang đấy để chờ giải tỏa. Chẳng mấy chốc, ngân sách Nhà nước chi phí cho việc đền bù, giải phóng mặt bằng bị đội lên hàng chục tỷ đồng, cũng bởi những ông quan giỏi trục lợi từ tiền thuế của dân này.

Sau lưng trụ sở Công ty Cổ Phần Alumin Nhân Cơ là khu nhà màu xanh dành cho người Trung Quốc, có xe buýt đưa rước hẳn hoi
Vừa đi vừa quan sát, chúng tôi càng cảm nhận được sức nóng hầm hập của một vùng đất đang bị tàn phá. Lâu lâu có những chiếc xe biển số xanh của nhà nước chở chuyên gia Trung Quốc chạy ngang qua, họ vênh váo bấm còi, phóng xe bạt mạng, miệng la lối giành đường bằng thứ tiếng nửa Tàu, nửa Việt tục tĩu....
Thấy chúng tôi không giống người địa phương, họ đưa những cái nhìn đầy thách thức, có gã phun bãi nước bọt xuống đất, miệng cười khinh bỉ. Máu nóng dồn lên mặt, gan sôi như lửa đốt, anh bạn đi cùng không giữ được bình tĩnh, cui xuống vớ lấy một cục đá rất to. Trong tích tắc, những người khác nhanh chóng giữ chặt tay anh ta lại. "Đừng, không đáng đâu !" - Một người vội hét lên.
Tôi sẽ không bao giờ quên được hình ảnh này, người bạn vốn hiền lành như cục bột, bỗng chốc trở nên khác hẳn, đôi mắt giận giữ đỏ bừng như hai ngọn lửa, bàn tay run run vẫn còn nắm chặt hòn đá, những hạt đất đỏ vỡ ra, rơi xuống trong tiếng cười khả ố của bọn Tàu vừa bỏ đi.
Quá trình san lấp vẫn được tiến hành...

Chúng tôi lại tiếp tục đi, một người đứng chụp hình, những người còn lại che chắn, cảnh giác. Vì là buổi trưa nắng, cho nên người qua lại không nhiều. Nhưng vẫn có cảm giác hồi hộp bởi những cái nhìn bất thường, hay những ánh mắt dò xét nấp trong vài quán nước tạm bợ xung quanh. Tình hình e có điều gì không ổn, chúng tôi liền vờ như quay trở lại, khi thoát khỏi tầm quan sát của những người "khả nghi", cả nhóm nhanh chóng rút vào một vườn cafe gần đó tìm cách đi tiếp. Nhận thấy đi đường chính khó có thể vào sâu thêm được, quan sát kỹ địa hình, chi còn cách là theo nương rẫy của người dân để tiếp cận gần hơn khu vực nhà máy.
Đường mới hơi khó đi, vì nương rẫy bị bỏ hoang đã lâu, cỏ mọc ngang đầu, che phủ hết lối đi. Một đám thư sinh quen với việc ngồi ghế giảng đường ĐH, bỗng chốc phải "trèo đèo, lội suối" cũng nảy sinh lắm chuyện, những kỷ niệm thật buồn cười. Những giống cỏ dại chưa bao giờ gặp cứa vào khắp chân tay, hầu như ai cũng mang vài vết xước trên người, nhưng sợ nhất vẫn là rắn và bò cạp. Lâu lâu cô bé đi cùng hét lên oai oải vì... bị một con sâu lạ bám vào vai.
Khu nhà đang xây dành cho các Chuyên gia Trung Quốc
Qua khỏi bãi nương rẫy, chúng tôi đến một khoảng đất trũng, giống như một đầm lầy. Không biết nước từ đâu chảy về đỏ ngầu, bẩn thỉu làm chúng tôi thấy rợn rợn. Có lẽ nguyên nhân chính là do quá trình xây dựng nhà máy đã làm cho nguồn nước biến đổi. Lội qua dòng nước, cảm giác ngứa ngáy lan khắp chân tay, lớp đất mềm ở đây lún xuống khá sâu, rất khó nhấc chân lên, đúng như có người đã nói, đất Tây Nguyên rất "yêu" người.
Quá trình xây dựng nhà máy làm cho nguồn nuoc bị ô nhiễm, lội qua rất ngứa
Vượt qua bãi đất trũng, chúng tôi phải trèo lên 1 ngọn đồi thấp, nơi đang được tiến hành san phẳng. Đất đỏ đang bị bào mòn trơ lên sỏi đá, lác đác vài đống cỏ dại vươn mình. Những lớp đất đỏ bị nước lũ xói mòn tạo thành những rãnh sâu đến cả chục mét trên triền đồi. Trèo mãi mới lên đến đỉnh, thật ngỡ ngàng khi trước mắt chúng tôi là cả một vùng đất bị san bằng, rộng, dài cứ tưởng chừng như bất tận, sự đại quy mô của công trình. Màu đất đỏ rực, phẳng lỳ tương phản hoàn toàn với khung cảnh Tây Nguyên vốn nhấp nhô, khúc khuỷu.



Cận cảnh một vùng đất bị san bằng
Trên vùng đất vừa được san bằng này, những đoàn xe nối đuôi nhau thực hiện nốt những công đoạn cuối, chờ ngày chính thức khởi công xây dựng nhà máy luyện Ocid Nhôm. Ở đây chỉ mới làm xong trụ sở công ty Nhân Cơ, những khu nhà ở cho chuyên gia Trung Quốc và các lán trại cho công nhân Việt Nam.

Nếu đúng như kế hoạch, thì cuối năm nay hoặc đầu năm sau nhà máy sẽ đi vào hoạt động,cho sản lượng 1,2 triệu tấn/ năm, và khi sản phẩm đầu tiên được cho ra đời, đó cũng là ngày đặt dấu chấm hết cho mảnh đất Nhân Cơ màu mỡ này. Kế đến, sẽ là cả Đắc Nông - nơi có lượng Bô-xit cao nhất bị đào bới tan hoang, kéo theo cả một Tây Nguyên chết chóc, và cả miền Nam phải gánh chịu hậu quả ô nhiễm khôn lường...

Chúng tôi cảm thấy rùng mình khi nghĩ đến điều đó, chúng tôi sợ nghĩ đến tương lai của các thế hệ sau, khi buộc phải gánh chịu những di họa từ thế hệ trước. Dưới chân chúng tôi là nơi dự tính làm hồ chứa bùn đỏ, thử tưởng tượng với nạn khai thác ồ ạt như hiện nay, liệu sau 10-15 năm nữa nó có còn đủ sức chịu đựng, bao bọc cho Tây Nguyên hay không ? Nếu xảy ra vỡ đập thì hậu quả không thể lường trước được. Thảm họa ấy còn kinh khủng hơn khi Đắc Nông với địa hình dốc, là thượng nguồn cùa 2 dòng sông chính Mê Kông và Đồng Nai... Cứ thế, "Quả bom bùn 20 triệu tấn" cứ treo lơ lửng trên đầu đất nước Việt Nam, chờ ngày phát nổ.
Những rãnh đất bị sói mòn gần nhà máy, sâu đến chục met, trượt chân xuống có thể gãy chân
Đứng như chết lặng một hồi lâu, chúng tôi quay trở lại con đường cũ. Nỗi ám ảnh về một Tây Nguyên khô hạn, chết chóc cứ bám theo suốt quãng đường còn lại, cho tới khi về đến nhà.
Chiều Tây Nguyên đìu hiu, vắng lặng. Bầu trời u uất nỗi buồn, xung quanh bốn bề núi non trùng điệp, xa xa những ngôi nhà leo lét ánh đèn ! Bữa cơm tối thân mật với người chủ nhà tốt bụng, lâu lâu có tiếng cười nói bật ra gượng gạo.
Đêm thứ hai ngủ lại Đắc Nông, ai cũng trằn trọc, bâng khuâng. Bất chợt anh bạn cười òa một cách thích thú, gửi cho mọi người xem tin nhắn SMS từ Sài Gòn, đại ý là ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu dừng ngay lập tức dự án Bô-Xit Tây Nguyên. Tiếng cười đùa, bình luận lại vang lên, xua đi nỗi lòng nặng trĩu, hóa ra tin Cá Tháng Tư. Cũng lạ thật, đa số người ta dùng ngày Cá Tháng Tư để vui đùa tếu táo, còn những người như chúng ta lại chọn ngày Cá Tháng Tư để nói lên tâm tư, nguyện vọng của mình.
Chúng tôi chìm dần vào trong giấc ngủ, trong đầu vẫn ám ảnh một màu đỏ của đất Tây Nguyên...

Đắc Nông, tháng 04/2009
Nhóm PV CLB Nhà Báo Tự do tường trình từ Tây Nguyên

Những người chỉ trích bauxite

http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=66710


Những người chỉ trích bauxite

VietCatholic News (29 Apr 2009 15:21)

Chính quyền lựa chọn tăng trưởng kinh tế thách thức tinh thần bài ngoại và an toàn môi sinh.
(Tựa của The Economist)
Trong một nhà nước độc đảng mà ở đó người phê phán chính quyền thường bị tống giam, rất hiếm ai dám nói thẳng trừ những cá nhân dũng cảm hoặc liều lĩnh nhất. Ấy vậy mà việc chính phủ Việt Nam toan tính để cho một công ty Trung Quốc bắt đầu khai thác một phần trong trữ lượng lớn quặng bauxite tàng ẩn dưới vẻ xanh mướt của Cao nguyên miền Trung đã kích động một làn sóng phản đối mạnh mẽ chưa từng thấy từ nhiều thành phần xã hội. Trong số họ có danh tướng đã non trăm tuổi Võ Nguyên Giáp, nhà sư bất đồng chính kiến Thích Quảng Độ cùng một loạt chuyên gia khoa học và nhà bảo vệ môi trường.
Việt Nam được thiên nhiên ban phú một trữ lượng bauxite (quặng để luyện ra nhôm) đứng thứ ba thế giới, và chính quyền cộng sản đang nôn nóng được thu lợi từ đấy. Trong một qui hoạch mà thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gọi là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”, chính phủ đang trông ngóng sẽ thu hút được 15 tỉ đô-la đầu tư để triển khai các dự án khai thác bauxite và tinh luyện nhôm vào năm 2025. Hợp đồng với một doanh nghiệp con của Chalco – tập đoàn khai khoáng quốc doanh của Trung Hoa – để xây dựng một xí nghiệp mỏ, và cả một thoả thuận với đại gia nhôm Alcoa của Hoa Kì về nghiên cứu tính khả thi của một mỏ khác, đã được kí kết.
Các chỉ trích vạch ra rằng việc tiến hành khai thác bauxite qui mô lớn tại vùng đất hiện đang canh tác cà-phê và các cây trồng khác sẽ gây nên một hiểm hoạ không thể hối cải đối với môi trường và một cuộc di dời vô hậu các nhóm sắc tộc thiểu số đang cư trú trên Cao nguyên. Việc khai thác bauxite trên các mỏ lộ thiên sẽ để lại những vết sẹo lớn về cảnh quan. Còn quá trình tinh luyện loại quặng này sẽ sản sinh một thứ “bùn đỏ” độc hại, khi trôi vào các dòng chảy có thể gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Không chỉ có vậy, sự hiện diện của một công ty Hoa Lục trong dự án đang gây tranh cãi đã thổi bùng lên tình cảm chống Trung Quốc, người láng giềng lớn từng đô hộ Việt Nam trong 10 thế kỉ và vừa mới giao tranh với nước này trong một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu vào năm 1979. Hoà thượng Thích Quảng Độ, lãnh tụ Giáo hội Phật giáo Thống nhất đã bị cấm hoạt động, cảnh báo rằng Việt Nam “đang bị đe doạ thôn tính”, với việc “những cư xá công nhân Trung Quốc đang mọc lên như nấm trên Cao nguyên, và khoảng một vạn di dân người Hoa sẽ đến tái định cư trong năm tới.” Nhận định của ông đã được phụ hoạ lại bởi một đội quân blogger hăng hái, và một liên kết chống khai thác bauxite Tây Nguyên được thiết lập trên Facebook, một trang mạng xã hội phổ cập, đã thu hút gần 700 thành viên (vào thời điểm post bài này, số thành viên đã là gần 900 – Người dịch). Hoá ra các blogger Trung Quốc không phải là cộng đồng duy nhất được dưỡng dục tinh thần bài ngoại đầy phẫn nộ. Song le, mặc dù phần nhiều sự phản đối bị chi phối bởi tinh thần này, những quan ngại về thành tích môi trường tồi tệ của nhiều công ty khai khoáng Trung Quốc là xác thực.
Tuy nhiên, bất luận được thúc đẩy bởi động cơ nào, sự phản đối Trung Quốc của công chúng đang khiến nhà đương cục Việt Nam lo lắng. Mới đây, chính quyền đã ra lệnh đình bản tờ bán nguyệt san Du Lịch trong ba tháng do báo này đã cho đăng tải một series bài về bất đồng lãnh thổ giữa hai quốc gia. Chính quyền viện lẽ rằng Trung Quốc đang là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Việt Nam đang phải hứng chịu một thâm hụt thương mại khổng lồ với nước láng giềng phía bắc và đang hối thúc giới chức Trung Quốc đầu tư mạnh hơn để hòng được bù đắp khoản thâm hụt. Với việc đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đã thuyên giảm 40 phần trăm trong quí đầu của năm 2009 so với một năm về trước, khi mà hầu hết các nước giàu đang cạn tiền, Việt Nam lúc này cần tiền của Trung Quốc hơn bao giờ hết.
Khoét sâu hơn sự xúc phạm đối với cuộc vận động chống Trung Quốc, thủ tướng Dũng vừa mới bỏ ra cả tuần lễ trong tháng này để thăm thú Hoa Lục, ra sức hô hoán đầu tư và hứa hẹn tạo mọi thuận tiện để các công ty Trung Hoa hoạt động dễ dàng trên đất nước ông. Trong cuộc hội kiến với thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo, Dũng phát biểu rằng hai nước cần phấn đấu nâng kim ngạch thương mại song phương từ 20 tỉ đô-la năm 2008 lên 25 tỉ đô-la vào năm 2010, đồng thời nỗ lực loại bỏ sự bất cân bằng mậu dịch.
Trong hội nghị vừa qua (nhóm họp trong một ngày ở Khách sạn Meliã Hà Nội hôm mồng 9 tháng Tư – Người dịch) của các nhà khoa học đang quan ngại về hiểm hoạ môi trường, phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đã phát biểu rằng Việt Nam sẽ không theo đuổi qui hoạch khai thác bauxite “bằng mọi giá”. Song trong thời buổi quẫn bách hiện nay của nền kinh tế, kẻ ăn mày đừng hòng mơ xôi gấc!
Dịch từ “Bauxite bashers” – The Economist April 23rd 2009
La Thành

Khai thác Bô-Xít ở Đắc Nông bất lợi cho người dân tộc thiểu số

Khai thác Bô-Xít ở Đắc Nông bất lợi cho người dân tộc thiểu số


Mặc Lâm, phóng viên RFA

2008-10-29

Dự án khai thác mỏ bô-xit tại tỉnh Đắc Nông đã dấy lên nhiều quan ngại chung quanh vấn đề môi trường cũng như tác động đến cuộc sống của cư dân địa phương, mà chủ yếu là các nhóm dân tộc thiểu số.
Photo Vietnamnet

Rừng Tây Nguyên

Tuy nhiên, đối với ý kiến phải tiến hành khai thác bôxít ở tỉnh Đắc Nông thì dự án giúp mang lại nguồn thu cần thiết để cải thiện đời sống nhân dân.

Mặc Lâm phỏng vấn ông Nguyên Ngọc, một nhà dân tộc học am hiểu vấn đề Tây Nguyên để tìm hiểu thêm vấn đề này.

- Đó là vấn đề đất đai vì khi khai thác quặng bô-xit thì phải phân bổ gần 2 phần 3 diện tích của tỉnh vì muốn khai thác thì phải phá hết rừng đi, sau đó thì đào khoảng 1 mét đến 1 mét rưỡi đất. Cái mà người ta gọi là kế hoạch sẽ hoàn thổ trở lại cho dân thì tôi cho là không khả thi.

ông Nguyên Ngọc

Khai thác Bô-Xít trên Tây Nguyên: dự án đòi hỏi nhiều nghiên cứu

Thưa ông, trong khi tham dự hội thảo bàn về việc khai thác Bô-xít tại tỉnh Đắc Nông, theo ông thì ngoài vấn đề ô nhiễm môi trường ra thì việc gì khiến ông quan tâm nhất?

-Đó là vấn đề đất đai vì khi khai thác quặng bô-xit thì phải phân bổ gần 2 phần 3 diện tích của tỉnh vì muốn khai thác thì phải phá hết rừng đi, sau đó thì đào khoảng 1 mét đến 1 mét rưỡi đất. Cái mà người ta gọi là kế hoạch sẽ hoàn thổ trở lại cho dân thì tôi cho là không khả thi.

-Là một người nghiên cứu Tây Nguyên trong nhiều năm, ông nhận thấy thế nào khi một số lớn người dân thiểu số phải thay đổi chỗ ở hiện nay vì yêu cầu di dân của dự án. Liệu những ảnh hưởng này có lớn lắm không?

-Về mặt dân tộc và văn hóa như vậy tất nhiên nó sẽ xáo trộn hoàn toàn đời sống của người dân thiểu số. Theo tôi thì suốt mấy chục năm qua chưa có nơi nào giải quyết tốt cho người dân tộc khi có bất cứ một dự án nào.

-Như vậy theo ông thì giải pháp nào tốt nhất cần đưa ra cho yêu cầu di dân khi có một dự án quan trọng và cần thiết phải thực hiện?

-Đối với Đắc Nông thì họ có khó khăn thật. Đất đai thì không phì nhiêu bằng Đắc Lắc, Gia Lai nhưng không thể để một mình họ giải quyết mà chính phủ trung ương phải tham dự vào.

ông Nguyên Ngọc

-Đối với Tây nguyên thì cần phải cân nhắc giữa bảo tồn và khai phá vì nó là mái nhà chung của Nam Đông Dương.

-Riêng trong trường hợp của tỉnh Đắc Nông thì nguồn tài nguyên thiên nhiên của tỉnh không đủ để cung ứng cho ngân sách tỉnh. Đất đai thì kém màu mỡ và phát triển cây công nghiệp thì không thành công. Vậy nhà nước cần có giải pháp nào cho bài toán này?

-Đối với Đắc Nông thì họ có khó khăn thật. Đất đai thì không phì nhiêu bằng Đắc Lắc, Gia Lai nhưng không thể để một mình họ giải quyết mà chính phủ trung ương phải tham dự vào. Trước mắt là không thu ngân sách của tỉnh này và kế đó phải lấy ngân sách các tỉnh khác bù vào cho tỉnh này.

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Bauxite-Mining-Scheme-and-the-Concerns-about-Disturbances-in-ethnic-minorities-living-conditions-10292008142825.html?searchterm=None

Giới trí thức, văn nghệ sĩ đồng thanh yêu cầu ngừng dự án khai thác bauxit Tây Nguyên

Giới trí thức, văn nghệ sĩ đồng thanh yêu cầu ngừng dự án khai thác bauxit Tây Nguyên


Thanh Phương

http://www.rfi.fr/actuvi/articles/112/article_3334.asp
Bài đăng ngày 27/04/2009 Cập nhật lần cuối ngày 28/04/2009 15:11 TU
Khai thác bauxit Tây Nguyên

Bản kiến nghị đề ngày 12/4, với chữ ký của hơn 130 người đầu tiên, đa số là các nhà trí thức, văn nghệ sĩ có tên tuổi trong và ngoài nước. Sau khi nộp bản kiến nghị cho Quốc hội, ban chủ xướng tiếp tục thu thập chữ ký và chỉ vài ngày sau số người tham gia ký tên đã lên tới hơn 1.100
Vào lúc dư luận Việt Nam phản đối ngày càng mạnh dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên, một nhóm trí thức gồm giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nguyên chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Văn học, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng, trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng và nhà văn Phạm Toàn đã khởi xướng một bản kiến nghị đề ngày 12/4.

Bản kiến nghị với chữ ký của hơn 130 người đầu tiên, đa số là các nhà trí thức, văn nghệ sĩ có tên tuổi trong và ngoài nước, đã bày tỏ mối quan ngại của họ về dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên.

Thứ nhất là kế hoạch khai thác bauxit được công khai hóa vào cuối năm 2008, nhưng thật ra đã được ký tắt với Trung Quốc cách đây nhiều năm mà không hề được thông qua ở Quốc hội.

Thứ hai, Trung Quốc đóng cửa các mỏ bauxit trong nước để chuyển sang khai thác ở Việt Nam, đem theo gánh nặng môi trường cho các thế hệ hôm nay và mai sau ở Việt Nam, như họ đã làm ở châu Phi với sự giúp đỡ của những chế độ cai trị tham nhũng tại đây.

Thứ ba, Trung Quốc không chỉ đem theo kỹ thuật, công nghệ, mà còn đưa nhân công vào Việt Nam.

Những người ký tên vào bản kiến nghị khẳng định rằng đất nước là của chung của cả dân tộc, chứ không là của riêng của một nhóm người nào, cho nên, họ đề nghị phải đưa vấn đề dự án bauxit Tây Nguyên ra trước Quốc hội và phải dừng ngay dự án này với sự giám sát chặt chẽ, cho tới khi nào Quốc hội xem xét toàn bộ báo cáo tiền khả thi và phê chuẩn. Các tác giả bản kiến nghị còn đòi là những nghiên cứu tiền khả thi về bauxit Tây Nguyên phải được dư luận rộng rãi tham gia và theo dõi.

Sau khi ba ông Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Thế Hùng và Phạm Toàn nộp bản kiến nghị cho Quốc hội, họ tiếp tục thu thập chữ ký và chỉ vài ngày sau số người tham gia ký tên đã lên tới hơn 1.100.

Đến mức mà nhóm soạn thảo kiến nghị đã phải lập ra một blog riêng mang tên Bauxite Việt Nam ở điạ chỉ : http://vn.myblog.yahoo.com/huechivn2009 để có thể nhận thêm chữ ký. Nhưng chỉ sau vài ngày, do số người truy cập quá đông, nhóm đề xuất kiến nghị đã phải chuyển blog này thành website, http://bauxitevietnam.info/.

Một kết quả thật không ngờ, như ông Hà Si Phu đã viết trong bài phổ biến trên mạng, tựa đề '' Thấp thoáng Diên Hồng'': '' Con số một ngàn chưa có ý nghĩa gì về số lượng, nhưng là dấu hiệu chuyển biến về chất, từ vô cảm đến trách nhiệm, từ ly tán đến hợp quần, từ lo sợ kinh niên sang một xã hội dân sự tự tin, vô úy''.

Thật vậy, có lẽ đây là lần đầu tiên ở Việt Nam mà giới trí thức văn nghệ sĩ góp chung tiếng nói một cách mạnh mẽ như thế để bày tỏ thái độ bất đồng với cách hành xử của chính quyền. Cho tới nay, nói chung các nhà trí thức, văn nghệ sĩ thường chỉ lên tiếng lẻ tẻ, hoặc không dám lên tiếng vị sợ đụng chạm.

Nhà văn Xuân Đức, trong bức thư gởi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 4/3 nói về dự án bauxit, viết rằng : '' Khi chúng tôi bày tỏ suy nghĩ của mình đến một vấn đề hệ trọng của đất nước mà không thuận chiều với ý chỉ đạo của trên thì thường chúng tôi chỉ nhận được lời khuyên có tính chất răn đe.''

Hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị nghe phần phỏng vấn với giáo sư Nguyễn Huệ Chi, một trong ba người khởi xướng bản kiến nghị. Bài phỏng vấn được thực hiện vào thứ năm tuần trước :

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi - Việt Nam
27/04/2009
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi

Hiện giờ, những áp lực từ dư luận có lẽ đã phần nào có tác động lên giới lãnh đạo Việt Nam, vì Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam tuy vẫn xem khai thác bauxit là chủ trương nhất quán của Đảng, nhưng đã ra lệnh rà soát lại dự án bauxit Nhân Cơ, một trong hai dự án đầu tiên hiện đang được triển khai. Nhất là đánh giá về hiệu quả kinh tế và tác động môi trường, cũng như phải quan tâm đến việc giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên.

Tuy nhiên, để đối phó với phản ứng bất bình ngày càng lan rộng, Bộ Chính trị cũng đã yêu cầu Ban tuyên giáo trung ương chỉ đạo công tác tuyên truyền phổ biến kết luận nói trên để gọi là tạo sự '' thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội''.

Nói cách khác, những ý kiến đi ngược lại quyết định của Bộ Chính trị rất có thể sẽ không còn xuất hiện trên các trang báo chính thức.