The Global Daily Watch and National Security
HỒ SƠ THỀM LỤC ÐỊA và BẢN ÐỒ VIỆT NAM CỘNG HÒA VAC-NORCAL ÐỆ TRÌNH LHQ 13/5/2009
- HỒ SƠ THỀM LỤC ÐỊA và BẢN ÐỒ VIỆT NAM CỘNG HÒA VAC-NORCAL ÐỆ TRÌNH LHQ 13/5/2009
- GENEVA AGREEMENT 1954
- PARIS AGREEMENT 1973
- FOREIGN RELATIONS US AND RVN 1969-1976
- NHỮNG HOẠT ÐỘNG QUÂN SỰ TẠI BIỂN ÐÔNG và TÂY THÁI BÌNH DƯƠNG
- THE PARACEL ISLANDS
- REMARKS ON THE EAST SEA CONFLICT
- VIETNAM REVIEW - THE STRATEGIC STUDIES
- REPUBLIC OF VIETNAM MINISTRY OF FOREIGN AFFAIRS WHITE PAPER SAIGON 1975
- NHỮNG TÁC ÐỘNG KINH TẾ LÊN KHU VỰC BIỂN ÐÔNG
- THE RVN CULTURAL, EDUCATIONAL MUSICS
- NHỮNG TRẬN ÐÁNH QUYẾT ÐỊNH (THE DECISIVE BATTLES)
- TÀI LIỆU về TVBQGVN (VNMA Archives)
- LỊCH SỬ THÀNH LẬP TRƯỜNG SĨ QUAN VIỆT NAM tại HUẾ 1/12/1948
Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025
Kích thước đo đạt theo Google’s Earth cho thấy các điểm sai của hai bài viết.
Kích thước đo đạt theo Google’s Earth cho thấy các điểm sai của hai bài viết.
![]() |
| Chiều dài đường Lȇ Lợi khoảng 790m, bề ngang từ đường Lȇ Lợi ra bờ sông chỉ có 106m |
![]() |
| Chiều dài đường Lȇ Lợi khoảng 790m, bề ngang từ đường Lȇ Lợi ra bờ sông chỉ có 106m |
Hai tấm bản đồ Huế 1968, Khu Sĩ Quan Ðộc Thân trȇn nền của Trường Sĩ Quan Hiện Dịch Huế (#101)
1. Tấm bản đồ Huế 1968, Khu Sĩ Quan Ðộc Thân trȇn nền của Trường Sĩ Quan Hiện Dịch Huế (#101)
Tấm Bản Ðồ Huế 1968, Khu Sĩ Quan Ðộc Thân trȇn nền của Trường Sĩ Quan Hiện Dịch Huế (#101)
Tấm Bản Ðồ Thành
phố Huế 1945, cho thấy đã có một tòa nhà tại vị trí TSQHD Huế
Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2025
78 Năm Nghĩ về Kỷ Niệm Tạ Ơn Trường Mẹ
78 Năm Nghĩ về Kỷ Niệm Tạ Ơn Trường Mẹ
Thoáng nghe ai đó nhắc tới Ngày Tạ ơn năm nay 2025 vào ngày Thứ Năm 27/11/2025, tôi chợt thấy chạnh lòng. Từ khi đến Mỹ mỗi năm đến mùa Lễ Thanksgiving, tôi chỉ biết nghĩ nhiều đến một Thanksgiving theo tập tục của người Mỹ nhắc tôi nhớ về sự tạ ơn có liȇn quan giữa người da trắng di dân (Pilgrims=hành hương) đã thu hoạch mùa gặt hái tốt lành nhờ được sự giúp đỡ của người thổ dân qua mùa Ðông khắc nghiệt năm 1621 tại Plymouth, Massachusettes. Khi tôi nhìn lại mình trong tâm trí, chợt thấy một nỗi xót xa khi nhớ những ngày đầu tiȇn tôi bước qua cổng Trường Võ Bị đã được un đúc, giáo dục, nuôi dưỡng bằng biết bao khó nhọc của bao nhiȇu người và tình cảm thân thương dưới mái trường thân yȇu đó. Cuộc đời tôi đang giữa mùa Ðông khắc nghiệt 1968, khi chiến tranh tràn lan khắp mọi miền đất nước, khi tương lai tôi là vô định, bị cuốn hút trong một lý tưởng, nhưng lạc lối. Mái trường Ðại Học Khoa Học Sài Gòn không còn là nơi dung thân cho tôi. Vì thế, tất cả những gì tôi đã học, rèn luyện được nơi Trường Mẹ là của cải quý báu đã nuôi dưỡng tâm trí tôi, nuôi sống tôi, gấp trăm vạn lần những của cải thu hoạch trong mùa Ðông giá lạnh năm 1621 cho qua cơn đói rét, vậy mà rồi mỗi mùa Thanksgiving cứ trôi qua. Hôm nay tôi thử tìm cách đi ngược giòng lịch sử vào những ngày đầu tiȇn của Trường Mẹ, 1/12/1948, và muốn biết ai đã đứng sau lưng Ngôi Trường ấy, Trường Sĩ Quan Hiện dịch Huế, hay Trường Sĩ Quan Việt Nam tại Ðập Ðá, Huế, Việt Nam qua một bài viết đăng trȇn Fb ngày 4/6/2024 của tác giả Lȇ Hồng Minh, và rồi tôi sẽ tìm hiểu tiếp trong những bài tiếp theo 78 Năm Nghĩ về Kỷ Niệm.
Ðối với tôi,
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam chỉ là một copy, một copy có thể mất và có thể
có một copy mới bởi vì tâm trí con người sẽ có đủ trí tuệ để tạo ra một copy
mới đẹp hơn nhiều.
Sau cùng, ai đã có một suy nghĩ vượt thời gian
trước tôi? Như bài viết của Lȇ Hồng Minh sau đây:
Bài này tác giả Lȇ Hồng Minh tựa đề “75 NĂM
TRƯỚC Ở HUẾ TỪNG CÓ TRƯỜNG QUÂN SỰ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM!”
Lời tôi ghi chú: Thật ra Trường Quân Sự đầu
tiȇn tại Ðập Ðá, Huế mở ra ngày 1/12/1948 không phải là trường quân sự đầu tiȇn
mà là Khóa Liȇn Quân Viễn Ðông khai giảng ngày 15/7/1946 tại Ðà Lạt.
Bài viết của Lȇ Hồng Minh được tôi cho font chữ
in nghiȇng. các note màu đỏ là sai.
---
75 NĂM TRƯỚC Ở HUẾ TỪNG
CÓ TRƯỜNG QUÂN SỰ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM!
Thông tin này tôi biết được đã lâu nhưng rồi quên không để ý dù rất bất ngờ
khi biết tận năm 1948, ở xứ Huế thơ mộng, người ta đã đặt ở đó một trường đào
tạo ra các sĩ quan.
Lý đó gì mà ở mảnh đất toàn áo dài và nón lá hiền thục lại tồn tại một trường
dạy… đánh trận? Tại sao rất ít bạn bè tôi, cả những người ở xung quanh và ngay
đối diện địa điểm này lại không quan tâm cà chẳng có chút thông tin gì về nơi
ấy? Điều đó thôi thúc tôi cố tìm hiểu về nó, vì địa danh này cũng gắn bó ít
nhiều với thời niên thiếu của mình.
“SĨ QUAN ĐẬP ĐÁ”
Người Huế cỡ U60 như tụi tôi đổ lên nói tới Đập Đá là biết luôn nhưng hỏi có
biết rằng nơi đây đã có “Trường sĩ quan Đập Đá” hay không, nhiều người nói
"chịu"!
Kỳ thật, đã có một trường sĩ quan hiện dịch (tạm hiểu là chế độ quân dịch bắt
buộc) nhằm đào tạo các sĩ quan nòng cốt cho quân đội, có tên là “Trường sĩ quan
Việt Nam” hay còn gọi là “Trường sĩ quan Huế” hoặc “Trường sĩ quan Đập Đá”,
được thành lập ngày 1/12/1948 tại hữu ngạn sông Hương, với sự hỗ trợ của quân
đội Pháp.
Hai năm sau, trường này chuyển về Đà Lạt vì ở đó có đầy đủ các điều kiện về khí
hậu và thực tế huấn luyện để rèn luyện các quân nhân. Trường được đổi tên thành
“Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt”, tọa
lạc tại đồi 1515, cách hồ Than Thở không
xa.
KÝ ỨC 75 NĂM
Câu hỏi vì sao đất Huế thơ mộng lại được chọn làm vị trí để đặt cơ sở đào tạo
sĩ quan này, có thể lý giải: địa điểm trường nằm ngay giữa thành phố Huế rất
thuận lợi, vì từ các nơi có thể đến trường bằng cả 3 loại phương tiện: (1)
đường bộ: dùng xe hơi theo Quốc lộ 1 xuyên Việt Nam, hoặc dùng tàu lửa theo
tuyến đường sắt xuyên Việt chạy song song với Quốc lộ 1; (2) đường hàng không:
đáp máy bay xuống phi trường Phú Bài cách Huế khoảng hơn chục cây số; và (3)
đường thủy: dùng tàu thủy cập cảng Đà Nẵng rồi dùng xe hơi chạy theo Quốc lộ 1
băng qua đèo Hải Vân tới Huế. Có lẽ sau này người ta đã nhận ra một số bất cập
khi đặt trường ở Huế chăng, nên mới chỉ sau 2 năm tồn tại ở đây, trường này đã
dời đi!
Ở thời điểm đó, việc xây dựng trường được giao cho Toà Đại biểu chính phủ tại
miền Trung (do ông Phan Văn Giáo đứng đầu - sau này ông Giáo làm tới
Phó Thủ tướng, Thủ hiến miền Trung dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại) phối hợp với
Bộ Chỉ huy Lực lượng Việt Binh Đoàn (do đại úy Nguyễn Ngọc Lễ làm chỉ huy
trưởng - sau ông Lễ lên tướng, đứng đầu ngành an ninh, tình báo quốc gia, tư
lệnh một quân đoàn và vùng chiến thuật thời Việt Nam Cộng hòa) thực hiện, bằng cách
chỉnh trang lại một ngôi biệt thự khá rộng (ngang 400m và sâu 200m), nằm trên
đường Lê Lợi [đường này có rất sớm từ đầu thế kỷ 19, cùng thời với việc các
trại thủy sư nhà Nguyễn đóng ở bờ Nam sông Hương. Từ 1943 trở về trước, người
Pháp đặt tên là đường Jules Ferry (Rue Jules Ferry), còn dân gian thì gọi là
đường Thủy sư; giữa năm 1943, đoạn từ cầu Trường Tiền đến Đập Đá được cắt ra
đặt tên đường Graffeuil (Rue Gaffeuil); đoạn còn lại vẫn mang tên Jules Ferry]
cách cầu Tràng Tiền mấy trăm mét, sát bên bờ sông Hương hướng từ Huế đi Phú
Vang, nhìn qua bên kia sông Hương là ngay chợ Đông Ba. Thật kỳ lạ, có người cho
biết địa điểm này là Saint Benoit (tên một quận ở vùng Réunion thuộc Pháp). Có
lẽ một trong những sĩ quan Pháp từng tham gia giảng dạy ở đây thấy vùng Đập Đá
này có nét tương đồng gì đó với địa danh Saint Benoit tận Réunion chăng? Với
địa danh này, lại có thêm một sự trùng hợp thú vị nữa, đó là năm 1951 khi chuyển vào Đà Lạt,
trường lại cũng được đặt bên cạnh hồ… có tên là Saint Bennoit luôn [mà nhiều
người còn nhớ tới địa danh Chi Lăng thời Pháp gọi là “Cite Saint Benoit”
ngay trước hồ Mê Linh - hồ Mê Linh được đào vào những năm đầu thập niên 20
thế kỷ trước với tên gọi là Cité Saint Benoit, là một trong những hồ chứa nước
nằm trong chuỗi hồ nhân tạo với hơn chục hồ lớn nhỏ].
"Trường quân sự Đập Đá", theo mô tả, mặt tiền sát lề phố là một dãy
tường gạch cao chừng 2m, ở giữa có cổng rộng chừng 8m, phía trên có gắn bảng
hiệu hình vòng cung sơn màu xanh lá cây trên kẻ chữ “Ecole Des Officiers
Vietnamiens” (nghĩa là “Trường sĩ quan Việt Nam”) màu vàng. Có tài liệu nói
trường này được ví như “Saint-Cyr Việt Nam” - "École Spéciale Militaire De
Saint-Cyr" thường được gọi là Saint Cyr - học viện lục quân danh giá của
Pháp.
Lại nói tiếp về trường này.
Hông bên trái trường hướng Tây sát với các nhà dân, được ngăn bằng hàng rào kẽm
gai cao 2m đan ô vuông dày 20cm từ lề đường phố thẳng tuốt xuống tận bờ sông
Hương, và có một cổng phụ cho xe hơi ra vô. Hông bên phải ở hướng Đông có một
dãy tường đá dày 40cm cao hơn 1m ngăn cách với khu biệt thự rất rộng kế bên khi
đó cũng đang bỏ trống không người ở. Sau khi trường này dời về Đà Lạt, cơ sở cũ
này cùng với biệt thự bên cạnh được phá đi để xây “Trường Võ bị Địa phương”
(École Militaire Régionale) thuộc Quân khu 2, cũng đào tạo các hạ sĩ quan.
Rồi mấy năm sau, “Trường Võ bị Địa phương” này lại bị giải tán, nơi này được
giao cho Quân vụ Thị trấn Huế sử dụng làm câu lạc bộ và nhà ở, nhà khách cho
các sĩ quan độc thân.
Thời gian 75 năm trôi qua đã xóa sạch sẽ không còn một dấu tích gì của ngôi
trường ấy, song vẫn còn có các ký ức của những người từng theo học ở đây. Họ đều
nhớ rằng bước qua cổng chính, bên trái là sân rộng có cột cờ cao. Phía sau sân
ở bên trái là ngôi nhà ngói khoảng 400m2 dùng làm trụ sở của Ban Giám đốc
trường gồm văn phòng của vị chỉ huy trưởng, giám đốc huấn luyện, các văn phòng
của các huấn luyện viên và phụ tá.
Phía bên phải sân sau cổng vào là trạm kiểm soát gồm văn phòng sĩ quan trực,
phòng y tế và nơi ngủ của lực lượng bảo vệ. Kế đến là một dãy nhà (dài khoảng
50m rộng 8m) làm phòng ăn tập thể, đồng thời cũng dùng làm giảng đường lớn. Bên
trong nhà ăn, ngoài lối đi rộng hơn 1m ở chính giữa, suốt chiều dài của nhà có
kê 2 dãy bàn dài bề ngang 1m với những dãy ghế dài không lưng tựa dọc 2 bên để
làm bàn ăn, và bàn viết khi cả khoá tập trung nghe thuyết trình hoặc làm bài
thi.
Ngay sau lưng trạm kiểm soát và nhà ăn, có 3 dãy nhà khác nhỏ và ngắn hơn dùng
làm phòng học và sinh hoạt riêng mà bên trong y như một lớp học vậy. Suốt bề
dài căn nhà, kê 2 dãy bàn học trò loại bàn liền ghế cho 2 người ngồi chung. Nơi
đầu phòng có một bảng đen lớn. Tất cả các dãy nhà đều lợp mái bằng gốc rạ rất
dày, tường chung quanh là những phên liếp bằng nứa đan. Mỗi nhà có 2 cửa ra vào
tại 2 đầu nhà, dọc hai bên nhà là 2 dãy cửa sổ rộng có cánh liếp nâng lên hạ
xuống được để thông thoáng gió và giúp cho ánh sáng lọt vào nhà những khi không
bật đèn.
Phía trong cùng của khu đất, dọc theo bờ sông Hương có 2 dãy nhà dài nối tiếp
nhau dùng làm nơi ngủ, xây tường gạch mái lợp ngói, bề cao từ nền đến nóc
khoảng 5m không có lớp trần che cản sức nóng từ nóc nhà phà xuống, nên mùa hè
rất nóng và ngược lại mùa đông rất lạnh. Dãy phía bên trái được ngăn đôi, một
nửa dùng làm kho còn nửa kia dành làm phòng ngủ chung cho khoá sinh người từ
miền Nam. Dãy bên phải, nửa bên trái dành cho khoá sinh người miền Trung và nửa
bên phải dành cho khoá sinh từ miền Bắc vô. Dọc theo chiều dài nhà ngủ, kê 2
dãy giường cá nhân bằng gỗ có cọc khung gỗ để giăng mùng chống muỗi. Giường
được kê từng cặp sát bên nhau và một đầu sát tường. Mỗi giường có một chiếu
bằng cói, một nệm nằm nhồi cỏ khô và bông gòn có thể gập đôi lại được.
Từ đầu nhà ngủ ra đến bờ sông Hương có một con đường đất rộng khoảng 5m, cuối
đường là một sàn gỗ dài rộng khoảng 25m2, cao hơn mặt nước sông chừng 30cm,
dùng làm cầu bến tắm giặt, có thể thấy nước sông Hương trong vắt nhìn suốt tận
đáy, ban đêm nhiều thuyển nhỏ đốt đuốc nơi đầu thuyền bơi dọc ven sông để người
ngồi trên dùng cây chĩa đôi bằng sắt đâm xuống nước để bắt cá. Bên phải con
đường xuống cầu bến tắm là nhà bếp và phía bên trái con đường nơi sát bên hàng
rào gần bờ sông là nhà vệ sinh công cộng đủ cho cả trăm nguời “giải quyết” suốt
ngày đêm.
BÂY GIỜ LÀ VỊ TRÍ NÀO?
Ban đầu khi mới tiếp cận với các tài liệu, tôi nghĩ vị trí này là bến tàu du
lịch hiện nay (trước gọi là bến Tòa khâm - Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, nay là Trường
Đại học Sư phạm Huế), vì dựa vô chi tiết nói trường này chỉ cách cầu Tràng Tiền
chừng 200 mét, nhưng đối chiếu lại thì có lẽ không phải, dù tôi và bạn bè từng
biết và từng tắm trên một cái cầu tàu bằng sắt (đã hoen rỉ) nằm dưới mực nước
sông Hương, ngay trước thảm cỏ công viên đối diện Trường Đại học Sư phạm Huế
bây giờ.
Cho rằng vị trí của trường này có thể nằm ngay nơi khách sạn Century Huế đang
tọa lạc (xây dựng ở những năm 1990) thì cũng không phải, vì vị trí này chưa
phải là Đập Đá, nơi chính xác là phải lối hơn 300m nữa mới tới.
Nhân đây nói thêm chút về Đập Đá. Đập Đá được người Pháp xây dựng từ năm 1917
với mục đích chặn dòng sông Như Ý (một chi lưu của sông Hương) để ngăn mặn phục
vụ nông nghiệp cho các huyện Hương Thủy, Phú Vang và làm đường giao thông nối
Huế và vùng Thuận An cũng như ngăn nước từ thượng nguồn sông
Hương đổ về trong mùa mưa gây nên lũ lụt. Ngày trước ở Huế cứ
qua tháng 7 âm lịch là bắt đầu mùa mưa lụt. Cứ mưa to to chút là
người dân hỏi thăm dò nhau “nước tràn Đập Đá chưa”, nếu tràn
thì người dân Huế hối hả chuẩn bị dọn lụt. Mùa mưa thì mỗi
lần nghe nước tràn Đập Đá là khu vực Vỹ Dạ bị cô lập, không
ai dám lội băng qua Đập Đá vì dòng nước chảy rất xiết. Còn học
trò bọn tôi chỉ mong... lụt để được nghỉ học rồi đi xuống bên này của Đập Đá
(góc Lê Lợi - Nguyễn Công Trứ) đứng nhìn dòng nước hung dữ và hóng hớt bất cứ
chuyện gì. Các bạn tôi ở phía Vỹ Dạ bên kia Đập Đá rất nhiều, hồi đó có đứa
liều lội qua Đập Đá khi nước còn xắp xắp mắt cá chân để về nhà, có đứa tìm cách
đi đò, hoặc nước lớn không thể về được thì không biết về nhà ngả mô nữa, hoặc
tìm nhà người quen mô bên ni mà xin ở lại, nhưng không biết bằng cách nào để báo
cho người nhà ở bên kia Đập Đá biết mà đỡ lo?
Thật tình cờ, bác sĩ Hung
Phan Van - một người bạn Huế từ thuở ấu thơ nay ở tận đất mũi
Cà Mau, đã nhắc thêm cho tôi vài chi tiết liên quan đến vị trí này, do nhớ được
chút ít ký ức năm nào.
Dường như sau 1975, vị trí này là doanh trại bộ đội, còn trước 1975 có người
gọi đây là “nhà đoan” - khu vực của các cơ quan về hải quan hay “trại Tây Kết”
nảo đó (?). Sau giai đoạn do bộ đội quản lý, nơi này có lúc đã trở thành chỗ
chiếu video phim bộ Hongkong và Ấn Độ với các bộ phim thịnh hành khi ấy như
“Mặt nạ quỷ”, “Vợ chồng câm điếc”, sau này còn có thêm mấy phim của Tần Hán,
Lưu Tuyết Hoa đóng nữa mà quên pà tên rồi. Bạn còn nhắc rằng vị trí này (ở ngay
trước nhà bạn "Banh" chung học cấp 3 Quốc Học và nhà mệ Đội) hay được
dùng để chiếu phim bãi, lúc đó phía dưới bờ sông hay có mấy chiếc tàu hút bùn
đậu, mà đám con nít xóm Lê Lợi thường xuống tắm ở đó.
Xâu chuỗi các chi tiết lại, thì chắc chắn, vị trí của ngôi trường ngày xưa ấy,
chính là là phần đất mà cả 2 khách sạn Century và Hương Giang đang nằm trên đó
hiên giờ!
Cao nhân nào có thêm thông tin gì về nơi này, vui lòng chỉ giáo, xin được lắng
nghe.
Vì đời cơ bản là vui dù thông tin cơ bản không có nhiều!
Chú thích ảnh: tòa nhà màu trắng phía bên trái hình là khách sạn Hương Giang,
rất có thể trước đây là phần đất mà một trường quân sự đã đóng trên đó! Còn
"con đường" chạy ngang hình, chính là Đập Đá (Huế), nơi lưu giữ bao
kỷ niệm ấu thơ của tôi và bạn bè Tho Le Bùi
Cẩm Vân Thuý
Vân Bùi Võ
Tiến Han
Pro Nguyen Luong Nguyễn
Đức Tính Khanh Vo
See less
Note của tôi (Hoàng Hoa) Trường Sĩ Quan Hiện
Dịch Huế dời vào Ðà Lạt 19/8/1950 và mở khóa thứ ba ngày 1/10/1950
Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2025
Ngày 16 tháng 9 năm 1972, nơi ông chụp ảnh lễ kéo cờ đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa trên Cổng chính của Thành cổ Quảng Trị,
Theodore Dudley Kurrus, 86 tuổi, đã qua đời vào ngày 12 tháng 9 năm 2020. Ted sinh ra tại Mt. Kisco, New York, là con của Doris Dudley và Theodore Hornby Kurrus.
Source: https://willistonblogs.com/obituaries/2020/10/05/theodore-d-kurrus-53/
Tuổi thơ của Ted gắn liền với việc học tại hàng chục trường nội trú, bao gồm Trường Williston-Northampton, Massachusetts, nơi ông được ghi danh vào Đại sảnh Danh vọng Williston nhờ môn bơi lội vào năm 2013. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông theo học tại Cao đẳng Kenyon ở Gambier, Ohio, nơi ông tốt nghiệp với bằng Cử nhân Kinh tế và bằng phụ ngành Tiếng Anh vào năm 1957. Tiếp tục tài năng bơi lội của mình ở trường đại học, Ted đã được trường cũ công nhận vào năm 1997 với việc ghi danh vào Đại sảnh Danh vọng Kenyon vì những thành tích bơi lội và lặn của ông.
Sau khi tốt nghiệp đại học, Ted bắt đầu sự nghiệp báo ảnh toàn cầu, đưa ông đến 68 quốc gia và được đề cử Giải thưởng Pulitzer về báo chí. Các bài viết của ông đã xuất hiện trên nhiều ấn phẩm quốc tế.
Năm 1959, ông làm việc cho United Press International tại Chicago và sau đó chuyển đến Văn phòng Indianapolis. Từ đó, Ted lên đường đến Hawaii, nơi ông gia nhập tờ Honolulu Advertiser vào năm 1961 với tư cách là phóng viên chuyên trách, và sau đó chuyển sang tờ Honolulu Star-Bulletin. Ông làm việc theo nhiệm vụ đặc biệt cho United Press International khi ở Hawaii, đưa tin về đội tuyển Olympic mùa hè tại Tokyo và Thế vận hội mùa đông tại Innsbruck năm 1964. Sau đó, ông điều hành công ty truyền thông tự do của riêng mình tại Hawaii, trong Treehouse nổi tiếng tại International Market Place, Waikiki. Con đường sự nghiệp đã đưa ông đến với công việc tại Hồng Kông với tư cách là Phó Biên tập viên của Tạp chí Kinh doanh và Công nghiệp Châu Á.
Ted là thành viên đầu tiên của đoàn báo chí phương Tây đặt chân đến Thành cổ (gần Huế) vào ngày 16 tháng 9 năm 1972, nơi ông chụp ảnh lễ kéo cờ đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa trên Cổng chính của Thành cổ Quảng Trị, nơi được coi là Iwo Jima trong Chiến tranh Việt Nam. Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã khen ngợi ông, ghi nhận “lòng dũng cảm cá nhân, khả năng vô hạn và sự cống hiến đáng ghi nhận cho khái niệm cơ bản về việc đưa tin báo chí đầy đủ và chính xác về sự kiện này”.
Sau chiến tranh Việt Nam, ông gia nhập tờ Dallas Morning News, nơi ông bắt đầu quan tâm sâu sắc đến Trung Quốc (PRC). Ông bắt đầu diễn giải bất kỳ sự kiện nào có thể nhìn thấy qua “lỗ khóa tre” của đất nước này. Và vào năm 1976, ông có cơ hội đến thăm Trung Quốc với tư cách là một trong ba nhà báo duy nhất tại Hoa Kỳ được mời đưa tin về Hội chợ Hàng hóa Xuất khẩu Quảng Châu hai lần một năm. Loạt bài gồm sáu phần đã thu hút sự chú ý của những người theo dõi Trung Quốc tại Hoa Kỳ và nước ngoài.
Cuối những năm 70, ông quản lý truyền thông toàn cầu cho Rockwell International có trụ sở tại Dallas, Texas.
Ông trở về Hawaii vào đầu những năm 80 và tiếp tục cuộc sống viết lách và chèo thuyền của mình. Năm 1990, ông và vợ, Rita Mae, nghỉ hưu bán thời gian ở Seaside, Oregon, nơi họ mở Nhà nghỉ dưỡng Rita Mae’s Great Little Bed & Breakfast và Quán rượu Rita Mae’s Great Little Wine Haus & Deli. Năm 1993, họ nghỉ hưu hoàn toàn ở Green Valley, Arizona.
Niềm đam mê biển cả của Ted đã dẫn dắt ông đi khắp thế giới. Tại Hawaii, ông theo đuổi niềm đam mê thủy thủ của mình với tư cách là thành viên của Câu lạc bộ Du thuyền Kaneohe. Những chiếc thuyền của ông, Harmattan II và Summer, đã ghi được nhiều chiến thắng cúp. Ông chia sẻ tình yêu biển cả với gia đình. Mặc dù Ted là một người đam mê tất cả các môn thể thao, nhưng Chicago Cubs là đội bóng yêu thích của ông và chiến thắng tại World Series 2016 của họ là một giấc mơ thành hiện thực.
Ted đã sống một cuộc đời hào phóng. Họa sĩ, họa sĩ truyện tranh, nhà thơ, người chơi golf, người chơi bài bridge Life Master, là một vài trong số những vai trò mà ông đã đảm nhiệm. Ông đã sống trọn vẹn cuộc đời mình với tài năng được ban tặng.
Ted ra đi để lại người vợ 38 năm chung sống, Rita Mae; con trai David Kurrus; Con gái Kimberly Kurrus (cháu Jamie và Aaron); con trai Alexander (vợ Stephanie) Kurrus (cháu Matthew, Steven, Chase, Alexis, Austin); con gái Kristina (chồng Chris) Pagnotta (cháu Zachary và Nicholas); con trai riêng Christopher (vợ Maria) Spelleri (cháu Robert và Anna).
Hai anh trai Jack “Butch” Jenkins và Thomas Kurrus đã qua đời trước ông. Anh trai Theo (vợ Susan) Kurrus, New Smyrna Beach, Florida; và chị gái Jo Ann Kurrus-Emory, Houston, Texas đã qua đời.
Một Thánh lễ riêng sẽ được cử hành tại Nhà thờ Đức Mẹ Thung lũng ở Green Valley. Mọi đóng góp tưởng nhớ Ted có thể được gửi đến Bệnh viện St. Jude, Trung tâm Thế vận hội Đặc biệt Hawaii hoặc Cơ quan Cứu hỏa Green Valley.
----
Source: https://willistonblogs.com/obituaries/2020/10/05/theodore-d-kurrus-53/
Theodore D. Kurrus ’53

Theodore Dudley Kurrus, 86, passed away on Sept. 12, 2020. Ted was born in Mt. Kisco, New York, to Doris Dudley and Theodore Hornby Kurrus.
Ted’s youth was peppered with attendance at a dozen boarding schools, including Williston-Northampton School, Massachusetts, where in 2013 he was inducted into the Williston Hall of Fame for swimming. Following high school he attended Kenyon College in Gambier, Ohio, where he graduated with a BA in Economics and a minor in English in 1957. Continuing his swimming talents in college, Ted was recognized by his alma mater in 1997 with induction into the Kenyon Hall of Fame for his swimming and diving achievements.
After college, Ted began a worldwide photo-journalism career, which led him to 68 countries and a nomination for a Pulitzer Prize in journalism. His writings appeared in a wide variety of international publications.
In 1959, he worked for Chicago’s United Press International and later move to the Indianapolis Bureau. From there, Ted set sail for Hawaii where he joined the Honolulu Advertiser in 1961 as general assignment reporter, and later transferred to the Honolulu Star-Bulletin. He worked on special assignment for United Press International while in Hawaii covering the summer Olympic team in Tokyo and winter Olympics in Innsbruck 1964. Afterward, he ran his own freelance agency in Hawaii in the famed Treehouse at International Market Place, Waikiki. His career path led him to employment in Hong Kong as Associate Editor of Asian Business and Industry Magazine.
Ted was the first member of the Western press corps to enter the Citadel Proper (near Hue) on Sept. 16, 1972, where he photographed the initial raising of the colors of the Republic of Vietnam over the Main Gate of the Citadel at Quang Tri, which was considered the Iwo Jima for the Vietnam War. The U.S. Marine Corps gave him a commendation acknowledging “personal courage, unlimited ability and noteworthy dedication to the fundamental concept of full and accurate press coverage of the event.”
After Vietnam, he joined the Dallas Morning News, where he developed a great interest of China (PRC). He began interpreting whatever events could be seen through that country’s “bamboo keyhole.” And in 1976, he had the opportunity to visit the PRC as one of only three American-based journalists invited to report on the semi-annual Kwangechow Export Commodities Fair. The six-part series attracted the attention of China watchers in the USA and overseas.
In the late ’70s, he managed worldwide communications for Rockwell International based in Dallas, Texas.
He returned to Hawaii in the early ’80s and continued his life of writing and sailing. In 1990, he and his wife, Rita Mae, semi-retired to Seaside, Oregon, where they opened Rita Mae’s Great Little Bed & Breakfast and Rita Mae’s Great Little Wine Haus & Deli Pub. In 1993, they fully retired to Green Valley, Arizona.
Ted’s passion for the sea led to a peregrination around the world. In Hawaii, he pursued his mariner passions with membership in Kaneohe Yacht Club. His boats, Harmattan II and Summer notched many cup victories. He shared his love of the sea with his family. While Ted was an aficionado of all sports, the Chicago Cubs were his favorite and their winning of the 2016 World Series was a dream come true.
Ted lived life large. Artist, cartoonist, poet, golfer, Life Master bridge player, were a few of the hats he wore. He filled his life with the talent he was given to the fullest.
Ted is survived by his wife of 38 years, Rita Mae; son David Kurrus; daughter Kimberly Kurrus (grandchildren Jamie and Aaron); son Alexander (wife Stephanie) Kurrus (grandchildren Matthew, Steven, Chase, Alexis, Austin); daughter Kristina (husband Chris) Pagnotta (grandchildren Zachary and Nicholas); stepson Christopher (wife Maria) Spelleri (grandchildren Robert and Anna).
Preceded in death by two brothers, Jack “Butch” Jenkins and Thomas Kurrus. Survived by his brother, Theo (wife Susan) Kurrus, New Smyrna Beach, Florida; and sister, Jo Ann Kurrus-Emory, Houston, Texas.
A private Mass will be held at Our Lady of the Valley in Green Valley. Donations in Ted’s memory may be made to St. Jude’s Hospital, Hawaii Special Olympics or Green Valley Fire District.
---
Vị trí của “Đại lộ Kinh hoàng” trên Quốc lộ 1 do ký giả Ngy Thanh phác thảo trong sách “Đại lộ kinh hoàng” (chưa xuất bản).
Vị trí của “Đại lộ Kinh hoàng” trên Quốc lộ 1 do ký giả Ngy Thanh phác thảo trong sách “Đại lộ kinh hoàng” (chưa xuất bản).

Ghi chú của ký giả Ngy Thanh: Bản vẽ khu vực “Đại lộ kinh hoàng” do Ngy Thanh phác thảo để diễn giải các chi tiết trong tuyển tập “Đại lộ kinh hoàng”
– Mỗi ô vuông trên bản đồ tương đương 1 km trên thực địa.
– Bản vẽ tay do Ngy Thanh thực hiện, dựa trên các tờ bản đồ số 6442 I, 6442 II, 6442 III và 6442 IV thuộc nhóm bản đồ L7014 của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS – United States Geological Survey) ấn hành dựa theo thông tin ghi nhận được vào năm 1965.
Một số tư liệu của phóng viên người Pháp Philippe Buffon
Trao đổi với Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ ngày 7/5/2022, phóng viên người Pháp Philippe Buffon cho biết như sau:
“I took these photos in June 1972 on Road No1 in the south of Quang Tri city. The battle was terrible. Many civilians were killed by VC. I was wound in Quang Tri while reporting there and was taken to an American hospital in Da Nang.” (“Tôi chụp những bức ảnh này vào tháng 6 năm 1972 trên Quốc lộ 1 ở phía nam thành phố Quảng Trị. Trận chiến thật khủng khiếp. Nhiều dân thường bị VC giết hại. Tôi bị thương ở Quảng Trị khi đang đưa tin ở đó và được đưa vào bệnh viện Mỹ ở Đà Nẵng.”)
Dưới đây là những bức ảnh mà phóng viên Philippe Buffon gửi cho Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ.

(Ảnh Philippe Buffon chụp trên Quốc lộ 1, phía nam thành phố Quảng Trị, vào tháng 6 năm 1972. Trong một email khác, Philippe Buffon cho biết ông đi vào khu vực này cùng lực lượng lính dù VNCH.)

(Ảnh Philippe Buffon chụp trên Quốc lộ 1, phía nam thành phố Quảng Trị, vào tháng 6 năm 1972)

(Ảnh Philippe Buffon chụp trên Quốc lộ 1, phía nam thành phố Quảng Trị, vào tháng 6 năm 1972)

(Philippe Buffon bị thương khi đưa tin ở chiến trường Quảng Trị.)
Source: https://usvietnam.uoregon.edu/tu-lieu-lich-su-hot-xac-dong-bao-tu-nan-tren-dai-lo-kinh-hoang-1972/
Thứ Năm, 9 tháng 10, 2025
Request the Academy of Motion Picture Arts and Sciences not to accept the Vietnamese film Red Rain for the 2026 Oscar Film Awards process.
From: The Editor in Chief of SaigonFilms Media, and VNR Vietnam Review
Email: viettrade_net@yahoo.com
October 11th, 2025
To:
The Academy of the Motion Pictures Arts and Sciences
Dear Academy of Motion Pictures Arts and Sciences
The Vietnamese film Red Rain has fictional historical content, but the important thing that the communists aim for is to distort the truth, change history, defame history, defame the enemy, propagate communism and make viewers see differently the fight to protect freedom of the Republic of Vietnam and its allies before 1975. Worse than that, the film Red Rain has reminded the Vietnamese refugee community in the US of the pain, the extreme suffering and death that the North Vietnamese army caused when they left the country.
The film Red Rain tells about the North Vietnamese communist soldiers who tore up the 1954 Geneva Agreement, crossed the 17th parallel, crossed the demilitarized zone (DMZ,) violated the sovereignty of Laos and Cambodge to suddenly attack and occupy Quang Tri town, the northern most province of the Republic of Vietnam, in which the Citadel was the center of the command post of the North Vietnamese units. Unfortunately, they were stopped in the South, the West was guarded by the Airborne troops of the Republic of Vietnam to prevent reinforcements from the North Vietnamese divisions, to the East and to the East sea was blocked by the Marines of the Republic of Vietnam with the efforts of the march to rescue Quang Tri town, to the North was the Thach Han River as a harsh fate that cut off the retreat route of the North Vietnamese army and isolated them from the advantage of the North Vietnamese army after capturing Camp Carrol. Therefore, the entire North Vietnamese army occupying Quang Tri town and the Citadel fell into a giant trap and had to accept being annihilated. Under the rain of bombs and artillery shells of the ARVN and the Marines, the Quang Tri Citadel, where the North Vietnamese army's command headquarters was located after 80 days of fierce resistance, was reduced to a pile of rubble.
| The The Marines of the Republic of Vietnam retook the Citadel 1972/09/15 |
| The Marines of the Republic of Vietnam retook the Citadel 1972/09/15 and raised the Flag at 12:45pm 1972/09/16. |
But what the Vietnamese communists did not expect was that the film Red Rain created the opposite reaction.
The same North Vietnamese divisions that tore up the 1954 Geneva Agreement, crossed the 17th parallel in 1972 and hid in the deep forests of Vietnam, Laos and Cambodia once again tore up the 1973 Paris Agreement, ceasefire throughout the entire territory of the Republic of Vietnam when the ink was still wet on their signatures, and launched attacks on the Republic of Vietnam while the US army had withdrawn and the Republic of Vietnam was no longer receiving aid and support from the US air force. On April 30, 1975, the capital of the Republic of Vietnam, Saigon, fell into the hands of the North Vietnamese army, leading to a wave of hundreds of thousands of Southerners who risked their lives to seek refuge at any cost. Hundreds of thousands of people died in the deep forests and mountains on their way across the sea. Countless women were humiliated or raped by pirates or murdered in front of their husbands and children. Tens of thousands of soldiers and civilians of the Republic of Vietnam died in re-education camps from the South to the North. Tens of millions of families became penniless, faced many tragedies, separated and killed when the Vietnamese communists forced them to go to the new economic zones. It was the largest exile in human history in search of a free land, second only to the return of the Jews to the promised land when they crossed the Red Sea in the Old Testament. Meanwhile, the North Vietnamese army entered the South and robbed 14 tons of gold, the property of the people of the Republic of Vietnam, robbed all the houses, all the money and property of the people in the South and transported them to the North and became a red capitalist class, causing poverty and suffering in the South.
| The Vietnamese people escaped the Communist Northern Army at any costs |
| Vietnamese refugees arrived in Australia after the Communist invasion 1975/04/30 |
| The horrible route 1972 when the Vietnamese fled the Northern Army |
![]() |
The
Vietnamese people fled the war in Quang Trị were killed by the invasion of the
North Vietnam Army on the horrible route 1972. |
| Quang Tri 1972, the Vietnamese people fled the invasion of the Northern Army. |
| The crime made by the 1972 invasion of the Northern Army in Quang Tri. |
![]() |
| The crimes caused by the North Vietnam Army in Quang Tri 1972 |
![]() |
| The crime caused by the North Vietnam Army in 1972 in Quang |
![]() |
| The Statue of Viet My Soldiers in San Jose 2024 |
| Vietnamese Americans who took refuge in the USA after the fall of Saigon 1975/04/30 |
The film Red Rain has evoked the torment and suffering of the communist refugee community when remembering the blood and tears that were shed in Vietnam and now millions of Vietnamese exiles from communism overseas cannot forget the suffering, death and mourning that the North Vietnamese army with the red flag like the color of blood in the film Blood Rain once brought to them.
For the above reasons, the Vietnamese refugee community in the United States urgently speaks up and requests the Academy of Motion Picture Arts and Sciences not to accept the Vietnamese film Red Rain for the 2026 Oscar Film Awards process.
Hoang Hoa
Email vietrade_net@yahoo.com
---
SaigonFilms
Media Channel https://www.youtube.com/user/SaigonFilmsMedia/videos
From: The Editor
in Chief of SaigonFilms Media
Email: viettrade_net@yahoo.com
October 11th,
2025
To:
The Academy
of the Motion Pictures Arts and Sciences
Dear Academy
of Motion Pictures Arts and Sciences
Phim Mưa Ðỏ
của Việt Nam mang nội dung giả tưởng lịch sử (fictitious history,) nhưng quan
trọng mà người cộng sản nhắm tới là bóp méo sự thật, thay đổi lịch sử, bôi nhọ
lịch sử, bôi nhọ đối phương, tuyȇn truyền cho chủ nghĩa cộng sản và làm cho người
xem nhìn khác đi về cuộc chiến đấu bảo vệ tự do của Việt Nam Cộng Hòa và Ðồng
minh trước năm 1975. Tồi tệ hơn thế, phim Mưa Ðỏ đã làm cộng đồng người Việt tỵ
nạn cộng sản tại Mỹ gợi nhớ lại những sự đau thương, thống khổ tột cùng, chết
chóc mà quân Bắc Việt đã gây ra khi họ bỏ nước ra đi.
Phim Mưa Ðỏ
nói về những người lính cộng sản Bắc Việt đã xé bỏ Hiệp Ðịnh Geneve vượt vĩ tuyến
17, vượt qua vùng phi quân sự để tấn công bất ngờ chiếm đóng thị xã Quảng Trị tỉnh
địa đầu củ nước VNCH, trong đó Cổ Thành được đặt trọng tâm là bộ chỉ huy của
các đơn vị Bắc Việt. Rủi thay họ đã bị chận đứng lại ở phía Nam, phía Tây bị
quân Dù của VNCH trấn giữ ngăn chận sự tiếp viện của các sư đoàn Bắc Việt, về
phía Ðông ra biển thì do TQLC của VNCH án ngữ với những mũi nổ lực của hành
quân tiến lȇn giải cứu thị xã Quảng Trị, phía Bắc là giòng sông Thạch Hãn như
là một định mệnh khắc nghiệt triệt đường rút lui của quân Bắc Việt và cô lập
chúng với ưu thế của quân Bắc Việt sau khi chiếm được Camp Carrol. Do đó, toàn
bộ quân Bắc Việt chiếm đóng trong thị xã Quảng Trị và Cổ Thành bị lọt vào một
cái bẫy khổng lồ và phải chấp nhận bị tiȇu diệt. Dưới làn mưa bom và đạn pháo của
quân lực VNCH và của TQLC, Cổ Thành Quảng Trị nơi đặt bộ chỉ huy của quân Bắc
Việt sau 80 ngày tử thủ chỉ còn là đống gạch vụn.
Nhưng điều
mà người cộng sản Việt Nam không ngờ tới là phim Mưa Ðỏ đã tạo ra những phản ứng
ngược lại.
Cũng chính
các sư đoàn Bắc Việt đã xé bỏ Hiệp Ðịnh Geneve 1954, vượt vĩ tuyến 17 năm 1972 đã
ẩn náu trong rừng sâu Việt Nam, Lào và Campuchea lại một lần nữa đã xé Hiệp Ðịnh
Paris 1973 ngừng bắn trȇn toàn lãnh thổ VNCH khi chữ ký của họ chưa khô mực và mở
những đợt tấn công vào VNCH giữa lúc quân đội Mỹ đã rút lui và VNCH không còn nhận
được viện trợ và sự yễm trợ của không lực Mỹ. Ngày 30 tháng 4, 1975 Thủ đô Sài
Gòn của VNCH đã rơi vào tay quân Bắc Việt dẫn theo làn sóng hằng trăm ngàn người
miền Nam đã bỏ nước liều mình ra đi tìm nơi lánh nạn với bất kể giá nào phải trả.
Hằng trăm ngàn người đã bỏ mình nơi rừng sâu núi thẳm trȇn đường vượt biȇn, vượt
biển. Không biết bao nhiȇu phụ nữ đã bị hải tặc hãm hiếp nhục nhã hay bị giết
chết trước mặt chồng con. Hằng chục ngàn quân dân cán chính VNCH đã chết trong
trại tù cải tạo từ Nam ra Bắc. Hằng chục triệu gia đình trở nȇn tay trắng, gặp bao
thảm cảnh, ly tan chết chóc khi bị cộng sản Việt Nam bắt đi kinh tế mới. Ðó là
một cuộc lưu đày lớn nhất trong lịch sử nhân loại đi tìm miền đất tự do chỉ kém
cuộc trở về vùng đất hứa của người Do Thái khi vượt Biển Ðỏ trong Cựu ước.
Trong khi đó
quân Bắc Việt vào Nam đã cướp đi 14 tấn vàng là tài sản của người dân VNCH, cướp
tất cả nhà cửa, tất cả tài sản tiền bạc của người trong Nam chở ra Bắc và trở
thành một giai cấp tư bản đỏ khiến cho miền Nam nghèo đói và ngập tràn đau khổ.
Phim Mưa Ðỏ
đã gợi lại nổi thống khổ dằn vặt cho cộng đồng tỵ nạn cộng sản khi nhớ lại máu
và nước mắt đã đổ xuống Việt Nam và giờ đây hằng triệu người Việt Nam lưu vong
tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại không sao quȇn được sự đau khổ, chết chóc và tang
thương mà quân Bắc Việt với lá cờ đỏ như màu máu trong phim Mưa Máu đã từng
mang đến cho họ.
Vì lý do trȇn
cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn cộng sản tại Mỹ khẩn thiết lȇn tiếng và yȇu cầu
Viện Khoa Học và Nghệ Thuật Phim Ảnh không chấp nhận phim Mưa Ðỏ của Việt Nam
cho tiến trình giải thưởng Phim Oscar 2026.
Hoàng Hoa
Email viettrade_net@yahoo.com

















