Ngày Tưởng Niệm Những Chiến Sĩ Hoa Kỳ đã hy sinh cho đất nước
Hoa Kỳ để cho chúng ta có được những an vui, tự do và hạnh phúc hôm nay và mai
sau.
Xin thắp những nén hương tưởng niệm các chiến sĩ VNCH đã hy
sinh trȇn khắp miền đất nước vì tự do, dân chủ và hạnh phúc cho quȇ hương Việt
Nam.
Tưởng Niệm Nhạc Sĩ Trúc Phương (1933-1995) đã cống hiến những
tác phẩm văn hóa, nghệ thuật và âm nhạc duy trì sự trường tồn tình yȇu quȇ hương
và dân tộc.
Trong video Trúc Phương khoảng tháng 3/1995 có ghi tȇn Hoàng
Minh, từ đó đến nay tháng 5/2019 đã hơn 24 năm trôi qua, tôi kính mong quý thân
hữu nào biết người tȇn Hoàng Minh trȇn video này hiện nay ra sao, đang ở đâu, nếu
biết xin vui lòng email tôi được rõ.
Email viettrade_net@yahoo.com
Hoàng Hoa 05/24/2019
---
Vài
chi tiết cần biết về Nhạc sĩ Trúc Phương (1933-1995)
Giòng nhạc Trúc Phương về thân phận con người trong thời
ly loạn trong thời gian ông sáng tác từ 1957 đến 1973, sau cùng là bài Xin Cám
Ơn Ðời khoảng tháng 3/1995.
Tȇn thật Nguyễn Thiện Lộc sinh năm 1933 tại Trà Vinh, mất
ngày 18/9/1995 tại Saigòn. Chúng ta thật sự không biết TP chết vì bệnh gì, có
người nói là sưng phổi (?)
-Trịnh Hưng di cư vào Nam (1954,) bắt đầu dạy
nhạc 1956.
Trúc Phương sáng tác bản nhạc đầu tay Tình
Thương Mái Lá 1957, trong khi Trịnh Hưng sáng tác Lúa Mùa Duyȇn Thắm 1957, nȇn
không thể nói Trúc Phương học nhạc của Trịnh Hưng được. Như vậy Trúc Phương học
nhạc từ đâu và khi nào? Giải thích điều này có thể TP học nhạc ngay lúc còn ở
Trà Vinh, nhưng phát triễn tài năng khi ông lȇn thành phố cùng sánh vai cùng
các nhạc sĩ tại đây. Tại thành phố, ông đã nhớ về quȇ cũ, bài Ðò Chiều 1957
mang hình ảnh người lính Cộng Hòa không loại trừ sự tưởng tượng chính bản thân
ông một người trai ngày trở về quȇ cũ với chiến y phai màu và xum họp với người
yȇu đã tiển đưa mình qua dòng sông lȇn Saigòn ăn học. Vì không học nhạc của nhạc
sĩ Trịnh Hưng, Trúc Phương phải lȇn thành phố Sàigòn trước năm 1956, nghĩa là
khoảng năm ông 20 tuổi. Như vậy TP phải học nhạc ở Trà Vinh hay ở thành phố trước
năm 20 tuổi bởi vì năm 21, 22 tuổi tài năng ông rất chững chạc mới có thể so
sánh và vẫy vùng hơn nhạc Trịnh Hưng.
Một tác phẩm được xem là của nhạc sĩ
Trúc Phương nếu có hình bìa và hai mặt lyrics, với tờ lyrics đầu có tȇn Trúc
Phương, dưới cùng có ngày tháng được Bộ Thông Tin cho phép xuất bản.
-Giòng nhạc Trịnh Hưng chỉ gói trọn những bài
nhạc về quȇ hương, không có những bài ca ngợi người lính Cộng Hoà hay VNCH. Bài
Lối Về Xóm Nhỏ* (1956) Lúa Mùa Duyȇn Thắm. .. những bài hát thuộc trường phái
khác với trường phái Trúc Phương. Trịnh Hưng người quȇ quán Bắc Ninh di cư vào
Nam năm 1954, trong khi Trúc Phương người Trà Vinh. Giải thích như thế nào, khi
Trúc Phương yȇu đời lính ngay từ 1957 với bản Ðò Chiều thì làm sao Trúc Phương
có thể là học trò của Nhạc sĩ Trịnh Hưng?
-Ðò Chiều, có mặt trȇn thị trường 27/6/1958,
nhưng phát hành tại Saigon 22/9/1960. Lyrics 1959, tái phát hành 31/12/1971.
-Hai Chuyến Tàu Ðȇm 25/7/1960, giấy phép
22/10/1973 phát hành 26/11/1973
-Lớp Nhạc Trúc Phương: 33/230 Ðường Gia Long,
Gò Vấp. Hiệu Hớt Tóc Hoàng Ngọc.
-Trúc Phương Tự Lực
-Chiều Làng Em 28/4/1961 viết tặng người vợ TP
quȇ Bến Tre. Hình bìa nữ ca sĩ Kiều Loan, nữ ca sĩ Kim Cương, hình trȇn trang 1
nữ ca sĩ Tuyết Hương in lần thứ 2.
-Ðôi Mắt Người Xưa 1961
-Chuyện Chúng Mình 12/12/1961
-Mưa Nửa Ðȇm 1962
-Tàu Ðȇm Năm Cũ phát hành 1962
-Nửa Ðȇm Ngoài Phố 1962, tiếng hát Thanh Thúy.
-Chuyện Ngày Xưa 1962
-Bóng Nhỏ Ðường Chiều 1962
-Hai Lối Mộng 1962
-Hình Bóng Cũ 1962, ảnh bìa Túy Phượng.
-Năm 1962, Trúc Phương đã sáng tác ít nhất 8
bài hát, nghĩa là cứ 1 tháng rưỡi là 1 bài hát. Thời gian này chính là thời
gian Trúc Phương đã cưới người vợ quȇ ở Bến Tre.
-Tình Thắm Duyȇn Quȇ 1963 hình bìa ca sĩ Hoàng
Oanh
-Buồn Trong Kỹ Niệm phát hành 23/11/1963
-Khoảng tháng 3 năm 1995, theo lời kể của Trúc
Phương (TP) con gái đầu lòng của TP là Trúc Loan được khoảng 2 tháng rưỡi khi
TP sáng tác Buồn TrongKỷ Niệm. Vì vậy,
ta có thể suy luận, TP lập gia đình khoảng năm 1962, vợ TP người Bến Tre khi đó
16 tuổi (sinh năm 1946), nhỏ hơn TP 13 tuổi (TP sinh năm 1933.) Buồn Trong Kỹ
Niệm mang thật nhiều ẩn ý không hẳn là một chuyện tình buồn. Năm 1963 là thời
gian ly loạn, chế độ TT Ngô Ðình Diệm bị lung lay, bao nhiȇu tình yȇu TP dành
cho chế độ có vẽ rơi vào bi quan và tan vở, rồi liệu chế độ sắp tới “đi thȇm một
bước,” có hạnh phúc hơn? vì thế TP cảm thấy sự đau khổ khi “đi thȇm một bước.”
TP sau cùng nhắn gởi “Nếu ta còn nhớ mắt môi người cũ, xin mang theo tiếng yȇu
khi gọi anh với em.” Buồn Trong Kỹ Niệm 1963 nói về một kỹ niệm tình yȇu buồn,
không hẳn là giữa hai người con trai và con gái. Ðó có thể là một hoài niệm về
một chế độ sụp đỗ và chúng ta hãy yȇu nó ngay chính hôm nay để không nuối tiếc
sau này khi cuộc tình với chế độ không còn nữa.
Buồn Trong Kỹ Niệm có thể so sánh như
bài thơ Bước Tới Ðèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan
-Chiều Cuối Tuần 1964
-Con Ðường Mang Tȇn Em 1/10/1964
-Một Người Ði Xa 1965
-Trước Mặt Tình Yȇu 1965
-Kẻ Ở Miền Xa 1965
-Ðȇm Tâm Sự 8/3/1966
-Ðể Trả Lời Một Câu Hỏi 30/3/1967 viết tặng
Dũng Chinh (tác giả Những Ðồi Hoa Sim)
-Mưa Nửa Ðȇm in lần thứ nhất 1/6/1962, 12/4/1967
được xem là một bi kịch lớn nhất trong dòng nhạc TP khi vào một đȇm mưa khuya
và gió lạnh trong căn gác trọ, đôi tình nhân người con trai lấy tay cho người
con gái gối đầu, và “ôn những kỹ niệm của thời tuổi nhớ,” mưa vẫn mưa rơi,
trong căn gác nhỏ thường là nhà trọ, ánh đèn dầu hôi leo lét hắt hình bóng hai
người lȇn tường. Rồi người con trai đã ra đi trong mưa gió, vòng tay đã không
còn trọn nữa. Ðó là một sự chia ly trong bi kịch trong mưa gió cuộc đời và lịch
sử đã khiến tình yȇu không còn trọn vẹn. Thanh Thúy chỉ hát Mưa Nửa Ðȇm edition
2 12/4/1967 khi cô 24 tuổi. Tiếng hát Thanh Thúy, ảnh hình bìa trȇn Mưa Nửa Ðȇm
edition 2, 1967.
-24 Giờ Phép 1/9/1967. Tiếng hát Chinh Thông,
học trò của TP.
-Kẻ Ở Miền Xa 3/12/1968
-Bông Cỏ Mây 1/4/1969
-Thư Gởi Người Miền Xa (Viết Thư Tình). Giọng
ca Trúc Ly, ban nhạc Nghiȇm Phú Phi, thu âm vào dĩa hát Việt Nam.
-Hai Chuyến Tàu Ðȇm edition 1 25/7/1960 do
Trúc Mai hát, được cấp phép của Phủ Tổng Ủy Dân Vận (PTUDV) 22/10/1973, phát
hành 25/11/1973 viết chung với Y Vân, Thanh Thúy hát. Ðây là bản nhạc chính thức
được phát hành được xem là cuối cùng của TP trước khi mất nước. Chúng ta không
rõ nguyȇn nhân nào từ 22/10/1973 đến 30/4/1975 TP không còn viết nhạc. Thời
gian này TP hàng ngày đón đưa Trúc Loan, Trúc Lam, Trúc Linh đến trường tiểu học
tư gần Cống Bà Xếp, chúng ta có thể đoán Trúc Loan khoảng 11 tuổi, nȇn năm đó
là 1974; như vậy gia đình TP rất hạnh phúc cho mãi đến 1976 khi cộng sản kiểm
kȇ tài sản, và vì TP viết nhạc về lính VNCH nȇn không tránh khỏi bị cộng sản tịch
thu nhà. Vợ con TP lâm vào hoàn cảnh sinh sống hết sức khốn khó về mọi mặt, ở
thành phố không nơi nương dựa. Gia đình Trúc Phương có 6 con nhỏ, cô con gái lớn
Trúc Loan khi ấy chỉ khoảng 13 tuổi và người vợ trẻ của ông khi ấy 29 tuổi, nhà
cửa không còn, con cái nhỏ dại từ đó không ai biết họ đã trôi dạt về đâu.
-Thói Ðời 23/4/1970 Hương Lan khi ấy 14 tuổi
hát thu vào dĩa nhựa Việt Nam, ban nhạc Nghiȇm Phú Phi. Tổng Phát hành TINH HOA
51 Trần Hưng Ðạo Saigon, nhà sách Hải Ký 104, Trần Hoàng Quân, Chợ Lớn.
-Khoảng tháng 3/1995, TP đã viết Xin Cám Ơn Ðời
trước ngày TP mất 18/9/1995. Bản nhạc này được TP nhắc đến khi có người phỏng vấn
TP, lúc này TP rất yếu.
-Những bài hát tuy mang tȇn Trúc Phương, nhưng
nếu không truy tìm được bài nhạc mang tȇn Trúc Phương thì không tính vào danh
sách này.
-Người vợ của Trúc Phương mất ngày 18/2/2014
(68 tuổi) tại Việt Nam
Tình
Yȇu Quȇ Hương Trong Giòng Nhạc Trúc Phương
Sơ lược lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1956-1963:
1.Hiệp
định Geneve 26/10/1954, chia đôi đất nước
2.1956
Tổng Thống Ngô Ðình Diệm không chấp nhận Tổng Tuyển Cử
3.1960
CSBV thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
4.1/11/1963
Chế độ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị lật đổ. Quân đội Mỹ đổ bộ tại Ðà Nẳng
-Trúc Phương đã viết nhiều bài nhạc ca ngợi
tình yȇu quȇ hương trong thời gian từ 1957 đến năm 1962. Thời gian này hình ảnh
miền quȇ miền Nam thanh bình tiȇu biểu trong bài Ðò Chiều 1957 chan chứa tình
thương nhớ khôn nguôi, thật nhẹ nhàng như sương khói trȇn sông giữa một người
con gái mộc mạc là cô lái đò với người lính cộng hòa vào một buổi chiều khi cô
đưa anh sang sông “để xây hướng cuộc đời.” Sau này, khi người lính trở về bến
sông xưa trong chiến thắng, áo trận nay phai màu sương gió, đã gặp lại cô lái
đò ngày nào và họ đã lấy nhau sống trong hạnh phúc. Tính nhân bản của giòng nhạc
Trúc Phương thật đầy ấn tượng (impressionist) qua tác phẩm Ðò Chiều 1957. Trúc
Phương mô tả một xóm nhỏ trȇn sông thật cô liȇu, yȇn ắng, với nét buồn “hắt hiu
mây chiều.” Người lính cộng hoà sang sông đi vào cuộc chiến, nhưng cuộc chiến
như ở nơi xa xăm, không ảnh hưởng đến cái làng bé nhỏ này cho đến anh trở về
trong vinh quang, và người con gái chèo đò đã chờ đợi bấy lâu ra đón. Khung cảnh
thật trữ tình, lãng mạn như khói sương, không tàn bạo khốc liệt và máu lửa.
Trong Ðò Chiều, người thôn nữ chèo đò chưa phải là người yȇu của người lính mà
sau khi đưa người lính sang sông ra đi, người thôn nữ đã thương nhớ.
-Tàu Ðȇm Năm Cũ 1962 được xem là một trong ba tác
phẩm bất tử (Ðò Chiều 1957, Tàu Ðȇm Năm Cũ 1962 và Buồn Trong Kỹ Niệm 1963) của
Trúc Phương, dường như chưa tác phẩm nào của nhạc sĩ khác hay hơn và có kết cục
chặc chẽ và xum họp như vậy, khi viết về chuyện tình một người con gái tiển đưa
người tình là một lính chiến rời sân ga bé nhỏ khuya rạng sáng để ra chiến trận
(về ngàn.) Hai người đã cầm tay nhau với những lời thề hẹn ghi khắc vào tim (cầm
chắc đôi tay ghi vào đời tâm tư ngày nay,) trong khi gió khuya lạnh và sương
rơi nhè nhẹ xuống đẩm lạnh chiếc áo người con gái. Trúc Phương đã mô tả đoạn
chia ly này thật xúc động, xuất sắc khi người lính đã lȇn tàu thì người con gái
cảm thấy sương xuống lạnh cho thấy sự cô đơn trống lạnh khi không còn hơi ấm của
vòng tay người tình (đôi tà áo mang ý nghĩa hai vạt trước sau của chiếc áo
dài.) Người con gái trở về, cảm thấy bâng khuâng như chơ vơ buồn qua kỹ thuật
ngôn ngữ của Trúc Phương (trở gót bâng khuâng, tôi hỏi lòng đȇm nay buồn không,
vì quá xúc động người con gái tự hỏi buồn không, nhưng sự thật nàng rất buồn) và
tự hỏi những giây phút bȇn nhau của hai người có đủ ấm lòng người tình trȇn con
tàu giờ dần dần xa cách ra biȇn khu (chuyến xe đȇm lạnh không.) Rồi vào một đȇm
mùa hè vui và nồng ấm, người con gái đã ra đón con tàu năm xưa nay mang người
lính trở về để hai người đoàn tụ. Trúc Phương đã lồng trong tác phẩm Tàu Ðȇm
Năm Cũ không gian, thời gian, sự lạnh lẽo khi không còn vòng tay người tình bȇn
cạnh, sự cô đơn bâng khuâng buồn và lo sợ chia ly, và đȇm đoàn tụ nồng ấm vào
mùa hè sau khi người tình lính chiến hoàn thành nhiệm vụ. Mùa hè ngày dài nhất,
nȇn sự chờ đợi càng lâu hơn. Ðiểm quan trọng tác phẩm Tàu Ðȇm Năm Cũ đã dùng
hình ảnh chiếc tàu xe lửa như là cuộc di chuyển quân dọc theo chiều dài đất nước,
khi cuộc chiến lan rộng, với phương tiện cơ khí chứ không như trong bài Ðò Chiều
bằng đò ghe xuồng qua một con sông.
Nét
Buồn Trong Giòng Nhạc Trúc Phương
Trong giòng nhạc TP, người ta nhìn thấy những nét buồn được
TP mô tả dưới nhiều (cụm) từ ngữ, đôi khi người nghe khó hiểu thấu.
Nét buồn trong giòng nhạc TP bắt đầu từ bài Buồn Trong Kỹ
Niệm 1963, theo lời kể của TP lúc đó TP rất hạnh phúc và người con gái đầu lòng
là Trúc Loan khi ấy khoảng 2 tháng rưỡi tuổi.
-(Buồn trong kỹ niệm): thay vì nói kỹ niệm buồn.
TP đã cho kỹ niệm là một không gian thời gian (domain) chất chứa những nổi buồn,
chứ không chỉ một kỹ niệm buồn.
-Trăm lần vui có (vạn lần buồn): buồn có thể đếm
được.
-(Buồn vào hồn không tȇn): sự bơ vơ, lạc lõng
trong nổi buồn không rõ rệt là tại sao hay buồn cái gì như người mất trí.
-Trở gót bâng khuâng, (tôi hỏi lòng đȇm nay buồn)
không: sự thật thì buồn lắm chứ.
-(Lòng buồn dạt dào): buồn quá sức, như một
vùng biển mȇnh mông và những đợt sóng lao xao không dứt.
-(Buồn hắt hiu mây chiều): những gợn mây lẻ
loi, hiu hắt, đơn chiếc, buồn.
-(Chưa buồn khi canh vắng khép đôi mi): khi
chưa biết buồn trong giấc ngủ một mình. Ý nói còn rất thơ ngây chưa biết thương
nhớ ai.
-Vắng Anh chiều kinh đô, (nghe xao xuyến) bước
cô đơn: Buồn vì vắng một người và những bước chân trở nȇn cô đơn, lòng xao xuyến.
-Canh dài (nghe bùi ngùi): buồn nghe như tiếng
thở dài, sâu lắng trong đȇm dài.
-(Mắt buồn) ngấn lệ trần: đôi mắt buồn và nước
mắt chảy ra.
-(Nổi buồn bước vào đời).
-(Chuyện đời sầu đắng)
-Sẽ (khơi buồn) một ngày về
-Chớ (mang nỗi buồn) theo bước đời
-Nhẹ (đi vào sầu)
-(Chuyện buồn dương gian) lẩn mất; lẩn mất có
nghĩa trốn mất, biến mất
-Bởi (lời buồn quȇ hương)
-(Ngày buồn) dài lȇ thȇ
-(Buồn hay vui đời xui bất chợt) đâu ngờ
-(Khói lam buồn) như muốn ngừng thời gian
Những
từ đặc biệt, tim, đời, Trúc Phương dùng trong các bài nhạc của TP:
-(Ghi vào đời tâm tư) ngày nay
-(E ấp trong tim) đȇm ước hẹn cho nhau nụ cười
-Khi trót gởi những (hình ảnh của tim) vào
lòng đȇm
-Ðón nguời (đi vào tim tôi)
-Ngày (tim lȇn tiếng gọi)
-Bàn tay thon ngón nhỏ đan tay (rắn sông hồ);
chữ rắn có nghĩa rắn rõi.
-Ðường vào tình yȇu (tình yȇu là một domain, một
không gian)
-Chuyện xưa bao năm (lắng trong tim)
-Màu xanh hé nụ (đôi tim)
-Sao rụng (nửa đường đȇm) ý nói những vì sao từ
từ mất đi khi trời gần sáng
-Làm (tim nghẹn lời)
-Nửa đȇm (lạnh qua tim)
-Giữ trong tim được không (TÐNC)
-Tôi muốn hỏi có phải vì (đời chưa trọn vòng
tay)
-Tôi mơ ước sao (nằm trọn vào tay nhau)
-Không gian bước, thời gian đi (sự vận chuyển
của vũ trụ, không gian chuyển dời, thời gian qua đi)
-
Những
từ kép tâm tư - một nét ảnh hưởng Phật giáo trȇn giòng nhạc Trúc Phương
-Ghi vào đời tâm tư ngày nay (TÐNC)
-Tám hướng tâm tư (CCM)
-Có phải vì tâm tư dấu kín trang thư còn đây
(MNÐ)
-Tâm tư bâng khuâng nghe chiều biệt ly (CCT)
-Tâm tư cô đơn (TÐNC)
-Hình bóng thương yȇu anh để vào tâm tư còn
không (TÐNC)
-Ðể tâm tư những đȇm ngủ không yȇn (NÐNP)
-Tâm tư nặng vai gánh (HLM)
Những bài hát của Trúc
Phương thường là về đối thoại (conversation) giữa hai nhân vật, bài Buồn Trong
Kỷ Niệm mô tả một cuộc tình của một nhân vật khi hồi tưởng khó quȇn mối tình đầu
(monologue).
Tàu Ðȇm Năm Cũ nhập đề trực
tiếp ngay khi vào câu 2 “Trời đȇm dần tàn (when), tôi (who) đến sân ga (where)
đưa tiễn (what) người trai (whom) đi về ngàn (where)” khác với bài Ðò Chiều sau
khi mô tả bến đò và cô lái đò, khung cảnh xóm quȇ, rồi mới nhập đề “chờ đưa người
viễn xứ.”
Bài Chiều Cuối Tuần nói về nổi
lòng người con gái đi tìm người con trai đang thụ huấn ở một quân trường vào mỗi
cuối tuần vì chỉ vào cuối tuần họ mới có thể gặp nhau.
Hình
ảnh người lính VNCH trong tác phẩm của TP
Hình ảnh cao đẹp, lý tưởng của
người lính VNCH bàng bạc trong tất cả các tác phẩm của TP
Những đóng góp lớn lao mà TP
đã cống hiến vào kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam mà mãi đến hôm nay chúng ta
vẫn chưa hiểu hết các ẩn số trong tâm hồn của TP đã đánh giá trị một miền Nam
nhân bản phong phú đã đào tạo, nuôi dưởng và phát triễn một nhân tài như TP. Từ
sau 1975, CSVN đã giết chết những tài năng như TP và từ đó làm ung thối các giá
trị văn hóa đạo đức của cả dân tộc.
Cuộc sống khốn khó, sau năm
1975, bị chế độ CSVN tước đoạt tài sản, quyền tự do và quyền làm người đã khiến
Trúc Phương trốn chạy, đi tìm một lối thoát trong vô vọng và nhuốm bệnh tật, từ
đó dẫn đến bệnh hiểm nghèo và cái chết. Mất TP, dân tộc Việt Nam mất đi một tài
năng phong phú xây đắp nền văn hóa tốt lành cho dân tộc. Từ 1957 đến 1973, chỉ
16 năm ngắn ngủi TP đã mang đến dân tộc Việt Nam một kho báu nghệ thuật âm nhạc
ít người sánh kịp; vì thế, cái chết của TP là một mất mát rất lớn khó bù đắp.
Tưởng nhớ TP, cũng như những
ai đã chết oan khiȇn dưới chế độ CS, dưới bóng cờ VNCH là một bổn phận của tất
cả mọi người không phân biệt nam nữ, quân dân để làm sáng danh một TP đã hy
sinh vì những công trình đóng góp vun đắp nền văn hóa VNCH chống lại sự suy đồi,
mất gốc, vô đạo và Hán hóa.
Hoàng Hoa
Tổng Biȇn Tập Saigonfilms.com
Founder Little Saigon San
Jose Initiatives and Developments
Little Saigon San Jose
04/21/2019
Buồn Trong Kỷ Niệm, hình bìa
bài nhạc 4 trang thiết kế 1963.
Kiểm duyệt số 1624/XB, ngày
26/6/1964 do tác giả xuất bản và giữ bản quyền.
Hình bìa Buồn Trong Kỷ Niệm
được thiết kế như một tác phẩm nghệ thuật mới nhất chưa từng có. Khung trời mùa
thu nắng vàng hực với những chiếc lá rời cành, người con gái úp mặt vào đôi
cánh tay dài từng ngón thon nhỏ. Mái tóc dài cho thấy nàng ở tuổi 16, đôi mươi.
Ðôi bàn chân trần thật khȇu gợi của nàng cho thấy vùng cỏ non bình yȇn, một con
nai đang đứng trong vùng cỏ bȇn cạnh, cho thấy sự yȇn ắng tỉnh mịch. Người vẻ
có đề tȇn nhưng không thể đọc được.
Cấu trúc thiết kế kích thước
không gian của bức ảnh cho thấy sự cô đơn của người con gái khi 2/3 không gian
phía trước của ảnh là bầu trời mùa thu cô đơn, nhưng người vẽ đã cho vào hình ảnh
con nai để tránh một không gian chết lặng. Phía sau lưng nàng, dưới chân, và phủ
trȇn đầu là màu đen của thân cây to, tàn lá và rể của nó cho thấy một dĩ vãng tối
tăm. Phía trước là đường chân trời cong lõm xuống cho thấy sự chuyển động tâm
lý tránh sự phẳng lặng nhạt nhẽo. Mái tóc dài chấm ngang lưng của nàng đã gợn sóng
phủ trȇn đùi phải của nàng ở ngay đường thẳng phân chia 2/3 bức ảnh đã khiến bức
ảnh giảm đi sự thinh lặng, chết chóc khi ngăn cách không gian. Nhìn kỹ nơi chiếc
quần dài của nàng cho thấy một đường cong mềm mại thật quyến rũ kéo dài từ bờ
mông xuống tận đùi trái của nàng. Toàn thân người con gái được mô tả với một tỷ
lệ kích thước tuyệt đối.
Những hình tam giác mosaic
mang ý nghĩa sự cân bằng, những tam giác mosaic màu vàng trȇn những cách đoạn
không gian trắng của chiếc áo cùng màu với chiếc quần màu vàng, đôi bàn tay
thon ngón nhỏ với đôi chân màu vàng cùng màu chiếc quần đã cho thấy dường như
toàn thân người con gái được nhìn xuyȇn qua những lần vải. Thật hết sức cân bằng
và khȇu gợi đam mȇ, hòa điệu với khung cảnh mùa thu vàng (như trong thơ Lưu Trọng
Lư.) Rõ ràng, có một sự tương phản rất lớn giữa lời “buồn trong kỷ niệm” và một
người con gái rất đáng yȇu trong bức ảnh này. Bức ảnh bìa này đã xóa đi những lời
buồn trong bài nhạc của Trúc Phương.
Bức tranh gồm 3 màu chính trắng,
vàng, đen. Kỹ thuật vẽ giống những mẫu tranh kiểu mosaic trȇn các khung ảnh kiếng
tại nhà thờ, chỉ trừ mái tóc đường vẽ liền nét dợn sóng liȇn tục, nhưng vẫn âm
hưởng mosaic pattern.
Hàng chữ nhỏ Buồn Trong Kỷ
NIệm, Trúc Phương được đặt khiȇm tốn nơi góc trái phía dưới bức ảnh nhường toàn
bộ bức ảnh với không gian mang ý nghĩa của nó.
Sự chuẫn bị chu đáo cho hình
bìa Buồn Trong Kỷ Niệm đánh dấu một giai đoạn cực điểm hưng phấn của giòng nhạc
Trúc Phương. Phải chăng Trúc Phương muốn nói về sự chia ly với một mối tình mà ông
là một nhân vật trong đó và ông vẫn còn yȇu người con gái đó? hay vì sự thay đổi
quyền lực chính trị đã làm hụt hẩng lý tưởng của ông?
Buồn Trong Kỷ Niệm ra đời
vào tháng ngày hạnh phúc nhất của ông.
Hoàng Hoa
Saigonfilms.com
04/21/2019
Trúc Phương, người nhạc sĩ của
huyền thoại
Những điều chưa hiểu về Trúc
Phương:
-Nơi ông sống lớn lȇn thời thơ ấu. Trường lớp
ông đã học qua ở Trà Vinh?
-Không tìm thấy chứng cớ trong gia đình ông có
người có sở thích âm nhạc.
-Ông học nhạc từ đâu, và lý do gì ông đã rời quȇ
Trà Vinh lȇn Sài Gòn?
-Những ngày đầu tiȇn ông ở Sài Gòn ra sao?
Những câu hỏi này có thể khó
có ai trả lời được.
Những
Bài Nhạc về Người Lính VNCH
-Ðò Chiều 1957
-Tàu Ðȇm Năm Cũ 1962
-Chuyện Chúng Mình
-24 Giờ Phép
-Trȇn Bốn Vùng Chiến Thuật
-Chiều Cuối Tuần
-Người Xa về Thành Phố
-Bông Cỏ Mây
-Kẻ Ở Miền Xa
-Ðể Trả Lời Một Câu Hỏi
-Bóng Nhỏ Ðuờng Chiều
-Ðȇm Trȇn Vùng Ðất Lạ
-Một Người Ði Xa
-Thư Gởi Người Miền Xa
-Ðȇm Tâm Sự
Về
Poster Trúc Phương
Trȇn poster Trúc Phương do Hoàng Hoa design gồm có bức ảnh
của nhạc sĩ Trúc Phương ở lề trái cùng, năm đó Trúc Phương trạc 20 tuổi tức khoảng
1953. Thời gian này Trúc Phương còn ở Trà Vinh, Trà Vinh chỉ đổi tȇn thành Vĩnh
Bình vào sau ngày 22/10/1956 dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Năm 1954 chia
đôi đất nước, nhạc sĩ Trịnh Hưng di cư vào Nam tại Sài gòn, nȇn không thể nói
Trúc Phương là học trò của Trịnh Hưng được. Mái tóc của Trúc Phương rất dài nȇn
không thể nói Trúc Phương làm việc như một giới chức chính quyền thời Tổng Thống
Ngô Ðình Diệm. Kiểu áo Trúc Phương mặc có hai “quai” khá hiếm người mặc. Do vậy,
qua bức ảnh này có thể hình dung Trúc Phương là một thanh niȇn rất vui tính, rất
mốt, phóng khoáng và có tâm hồn nghệ sĩ. Chúng ta không biết tại sao Trúc
Phương lại bị cận thị như vậy và lý do gì ông đã lȇn Sàigòn.
Hình dưới là trích từ bìa của tờ nhạc Tàu Ðȇm Năm Cũ do
Trúc Phương sáng tác năm 1962. Ðây là tác phẩm “bản lề” của giòng nhạc Trúc
Phương vì nó thay đổi toàn diện giai đoạn trước của giòng nhạc Trúc Phương từ sau
tác phẩm Ðò Chiều năm 1957. Tàu Ðȇm Năm Cũ mô tả cuộc chia ly khi người con gái
tiển đưa người yȇu ra mặt trận trȇn chuyến tàu khuya rạng sáng. Ðây là một tác
phẩm được xem là quan trọng nhất trong giòng lịch sử âm nhạc chiến tranh Việt
Nam. Tàu Ðȇm Năm Cũ hình bìa do Duy Liȇm vẽ ghi 1962, phía bìa sau ghi K.D.Số
334/XB Ngày 5-3-1962, khi đó Chuyến Tàu Hoàng Hôn của Minh Kỳ và Hoài Linh ghi
Thị Nghè “Mùa mưa 1962.” Do đó, ta có thể xem Tàu Ðȇm Năm Cũ của Trúc Phương là
tác phẩm ra đời trước Chuyến Tàu Hoàng Hôn của Minh Kỳ và Hoài Linh.
Tàu Ðȇm Năm Cũ nghe mường tượng như những câu thơ trong
Kiều:
“Người lȇn ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.”
Nhưng Tàu Ðȇm Năm Cũ có một kết thúc xum họp khi vào một
đȇm mùa hè, người con gái đã gặp lại người yȇu cũ trở về sau chinh chiến trȇn
chuyến tàu tại sân ga xưa.
Cuộc chia tay giữa người con gái và người yȇu là chinh
nhân, trong thuở nào cũng có, nhưng Tàu Ðȇm Năm Cũ là tác phẩm tiền phong trong
giòng nhạc chinh chiến như trang tình sử mà Trúc Phương sáng tác lại còn bi
tráng hơn khi cảnh chia ly vào giữa khuya rạng sáng như “Chín tầng gương báu trao
tay, nửa đȇn truyền hịch đợi ngày xuất chinh” của Chinh Phụ Ngâm.
Lối nhập đề Tàu Ðȇm Năm Cũ hoàn toàn mới theo lối văn
chương khác với văn Tàu. Chúng ta biết ai, việc gì xãy ra, thế nào, ở đâu chỉ
qua câu đầu tiȇn của bài nhạc:
“Trời đȇm dần tàn, tôi đến sân ga đưa tiển người trai lính về ngàn,”
nghĩa là người con gái ra sân ga tiển người yȇu là lính
ra chiến trường bằng xe lửa vào giữa đȇm khuya rạng sáng khác với nhập đề “lung
khởi” trong Chuyến Tàu Hòang Hôn của Minh Kỳ và Hoài Linh mà người nghe phải
nghe đến câu 16 và câu 17 thì mới hiểu mơ hồ rằng người con trai ấy là người
lính:
“Nếu hay chăng người ơi, chốn xa xôi chàng trai,
Còn đem yêu thương rắc lên muôn vạn oán hờn,”
Chính vì thế Tàu Ðȇm Năm Cũ được xem là bất tử giữa khi
tình hình quân sự hoàn toàn sôi động sau khi Bắc Việt thành lập Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam tháng 12/1960, nền đệ nhất Cộng hòa sụp đổ
1/11/1963 và rồi tiếp theo quân Mỹ đổ bộ lȇn cửa
biển Ðà Nẳng 8/3/1965.