Tuyên bố và sự thật: Tô Giới Tầu tại Tân Rai
VietCatholic News (01 May 2009 22:54)
THỦ TƯỚNG TUYÊN BỐ
nguồn: http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/2009/04/845025/
Bộ Công Thương có nhiệm vụ chuẩn bị báo cáo về tình hình thực hiện các dự án khai thác và chế biến bô-xít với Hội nghị Trung ương tới, Bộ Kế hoạch - Đầu tư sẽ bổ sung vào Báo cáo kinh tế - xã hội của Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 5 tới về việc thực hiện dự án khai thác bô-xít, sản xuất alumin.
Đánh giá lại hiệu quả dự án Nhân Cơ
Thủ tướng giao Bộ Công Thương rà soát lại quy hoạch bô-xít trên cơ sở cập nhật tình hình và dự báo mới nhất về tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu và đề xuất điều chỉnh Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025, lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, trình duyệt theo quy định.
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra, tính toán, đánh giá lại hiệu quả dự án alumin Nhân Cơ (Đắk Nông), báo cáo Thủ tướng.
Bộ này cũng có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin - Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chủ trương của Đảng và Chính phủ về phát triển ngành công nghiệp khai thác, chế biến bô-xít.
Thủ tướng giao Bộ Tài nguyên - Môi trường tiếp tục chỉ đạo công tác điều tra cơ bản, thăm dò, xác định trữ lượng tài nguyên bô-xít của cả nước nói chung và khu vực Tây Nguyên nói riêng, đồng thời đề xuất việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường đối với các dự án.
Lao động tại chỗ là chính
Thủ tướng cũng yêu cầu Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam ( TKV) thực hiện nghiêm túc các quy định về bảo vệ môi trường, bảo đảm chất lượng thi công các công trình về xử lý môi trường, lưu ý TKV xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch khai thác mỏ, hoàn thổ, khôi phục môi trường theo trình tự cuốn chiếu, bảo đảm tác động tối thiểu đến hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp của địa phương, trình Bộ Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi triển khai thực hiện.
Trước mắt, TKV triển khai các dự án Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông) bảo đảm tiến độ, chất lượng và hiệu quả kinh tế, tài chính. Riêng dự án Nhân Cơ chỉ triển khai sau khi đánh giá hiệu quả kinh tế, báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt.
TKV cũng có nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân cho dự án trên cơ sở lực lượng lao động tại chỗ là chính, chủ động hướng dẫn nhà thầu nước ngoài thực hiện đúng các quy định hiện hành về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Bộ Công an phối hợp với các địa phương kiểm tra, giám sát chủ đầu tư (TKV) thực hiện đúng quy định về lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam và bảo đảm an ninh, trật tự trong khu vực.
Thủ tướng cũng yêu cầu các địa phương có hoạt động khoáng sản bô-xít phối hợp với các bộ, chủ đầu tư thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư, bảo đảm đời sống của nhân dân tại nơi ở mới tốt hơn nơi ở cũ; đặc biệt quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển phong tục, tập quán và giữ gìn bản sắc của đồng bào dân tộc trong quá trình bố trí tái định cư.
Ngoài các bộ liên quan và TKV, văn bản này được gửi tới UBND các tỉnh Đắk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum, Bình Phước, Bình Thuận, Cao Bằng, Lạng Sơn.
VÀ ĐÂY LÀ SỰ THẬT
Bauxite Tân Rai - "Tô giới Tàu" trên cao nguyên Việt Nam
Thi đua bán nước và phá nước
Quốc lộ 28 từ Đắc Nông đến Lâm Đông
Vẻ hoang sơ, bí ẩn của vùng núi Tây Nguyên
Bảo Lâm
Vào tô giới Tàu
Ngã ba tô giới Tàu
Con đường đất đỏ
Tân Rai - Tô Giới Tầu
Tân Rai - Tô Giới Tầu
Người Tầu - chữ Tầu mọi nơi
Rời vùng bauxite Nhân Cơ của Đắc Nông, chúng tôi lại lên đường, điểm kế tiếp là một vùng bauxite khác đó chính là Tân Rai, Bảo Lộc. Hành trình xuyên Tây Nguyên khá hoang vắng, xe đi qua những ngọn đèo heo hút, qua những khúc quanh ngoằn ngoèo, chiếc xe cũ nát cứ rung lên bần bật bởi đoạn đường đất đỏ nhấp nhô gập ghềnh.
Suốt quốc lộ 28 từ Đắc Nông đến Lâm Đông, thiên nhiên nhiều chỗ vẫn giữ được vẻ hoang sơ, bí ẩn. Màu xanh tươi mát bao quanh những triền đồi, phủ kín những thung lũng, hoa ven rừng khoe sắc, đẹp đến lạ kỳ trong nắng sớm Tây Nguyên. Trên nương trên rẫy, những người dân tộc thiểu số vẫn nhọc nhằn lao động, trên những gương mặt lam lũ ấy như chứa đựng cả vẻ cam chịu uất ức lẫn ngầm phản kháng...
Xe dừng ở Bảo Lộc, đi thêm 15 km nữa mới đến được trung tâm thị trấn Lộc Thắng (huyện Bảo Lâm). Hai bên đường, những nương trà thâm thấp, xanh tươi mơn mởn phủ trên những triền đồi. So với Nhân Cơ thì Lộc Thắng phát triển hơn nhiều về mọi mặt, đường xá, chợ búa, trường học... được xây cất khang trang hơn. Hồi cuối năm 2008, bất chấp dư luận phản đối, người ta đã khởi công xây dựng Dự án tổ hợp Bauxite – Nhôm Tân Rai ở đây. Tân Rai là tên gọi có từ xưa chỉ cả vùng đất Lộc Thắng và Lộc Ngãi bây giờ, phần đông cư dân là người Công giáo cùng chung sống thuận hòa với các đồng bào dân tộc người K'ho, Châu Mạ.... Kinh tế của người dân chủ yếu dựa vào việc trồng trà, cafe, hạt tiêu...
Tìm được chỗ trọ ngay gần trung tâm chợ Lộc Thắng, chúng tôi bắt đầu đi dạo quanh một vòng. Đúng như những lời kể lại, ở đây có rất nhiều người Trung Quốc, họ có mặt ở khắp nơi, đàn ông có, đàn bà cũng có, họ qua lại, chuyện trò rôm rả. Những quán ăn, nhà hàng, từ cách phục vụ cho đến bảng hiệu toàn bằng tiếng Hoa. Tại trụ sở Ban quản lý Tổ hợp Bauxite - Nhôm Lâm Đồng (TKV), những đoàn xe chở chuyên gia Trung Quốc ra vào tấp nập, có bảo vệ canh gác nghiêm ngặt.
Người dân nơi đây tuy chưa hiểu rõ về tác hại của Bauxite, nhưng trước mắt, họ tỏ ra rất khó chịu và bực tức về cuộc "đổ bộ" của những. ..."thằng Tàu" quái đản. Thỉnh thoảng chúng tôi được nghe kể những câu chuyện dở khóc, dở cười xung quanh thói keo kiệt của những anh Tàu ba phải. Cuộc sống đang bình yên bỗng bị xáo trộn, bởi bao nhiêu rắc rối, phiền hà của các dự án với "đội ngũ quân Tàu xâm nhập". Mới chân ướt chân ráo qua VN, vậy mà trên địa bàn huyện Bảo Lâm đã xảy ra khá nhiều vụ xô xát, quậy phá của các nhóm công nhân TQ với người dân địa phương. Tình hình an ninh ngày càng trở nên phức tạp, công an có đến giải quyết cũng chỉ giỏi đe nẹt dân mình, còn với người TQ thì họ chỉ làm qua loa cho có lệ rồi về. Đó là, chưa kể những vụ "cuộc tình dị chủng" làm một số cô gái Việt mang bầu, đẻ con...
Theo lời chỉ dẫn, chúng tôi ghé vào thăm một cụ già được coi là "thổ địa" ở đây, vì cụ đã sống ở mảnh đất này gần 50 năm. Trong căn bếp xiêu vẹo, ngọn lửa cháy leo lét, cụ hướng cái nhìn xa xăm về những cánh rừng thông thưa thớt và thở dài: "Mới có một năm mà đổi thay nhanh quá, chẳng còn nhận ra Tân Rai nữa. Rừng bị chặt phá, suối cũng bị ô nhiễm. Thanh niên trai tráng không có việc làm, bỏ đi hết cả, những đứa ở lại thì buồn chán sinh ra lắm tệ nạn. Bây giờ lại thêm thằng Tàu kéo vào, mang văn hóa của nó đến cắm rễ, còn văn hóa của người dân tộc mình ngày càng mất dần".
Cơn ho sù sụ kéo dài, đôi mắt nhăn nheo của cụ đượm buồn. Không gian căn bếp trở nên im ắng, lặng lẽ. "Cô cậu ở Thành phố có điều kiện, chắc biết rõ hơn tôi. Cái bô-xit này tai hại lắm, nó giết đất, giết người từ từ. Nó giết cả thế hệ con cháu mình. Tôi già rồi, nhưng lo lắm. Lo nhất là thằng Tàu nó đổ người vào đất Tân Rai này làm loạn, mà sắp loạn thật rồi, nó vào đông quá, không ai quản lý được..."
Ông cụ lo buồn cũng phải. Mảnh đất Bảo Lâm với mật độ dân số chỉ vào khoảng 60 người/km2, bỗng chốc phải hứng chịu cuộc xâm nhập của hàng ngàn người từ phương Bắc kéo đến. Những cư dân mới đến có chủ đích không tốt lành, với ăn hóa, ngôn ngữ và cách sống hoàn toàn khác hẳn cũng dễ nảy sinh nhiều bất ổn. Một sự xáo trộn quá lớn trên mảnh đất cao nguyên vốn bình yên dễ khiến con người ta lo âu.
Hình như lâu lắm mới được giãi bày tâm sự, ông cụ nói chuyện với chúng tôi đến tận chiều tối. Ở đây, những người có suy nghĩ được như cụ quả là đáng quý. Đa phần người dân vẫn chưa hiểu hết tác hại của Bauxite, đặc biệt mưu đồ Hán hóa Tây Nguyên ẩn nấp dưới chiêu bài hợp tác kinh tế. Sự thiếu thông tin của người dân, cộng với sự thờ ơ, vô trách nhiệm về mặt quản lý của chính quyền sẽ là nguyên nhân dẫn đến một thảm họa khôn lường trong tương lai.
Các cô gái địa phương bây giờ cũng bắt đầu đi học tiếng Hoa, lớp học mới mở lúc nào cũng đông nghẹt học viên. Xa xa trong các bản làng, công nhân TQ đêm đêm đạp xe ra vào "tán gái". Những quán đặc sản thịt rừng mọc lên như nấm, bên ngoài, hàng dài xe biển số xanh của quan chức trên tỉnh về. Trong quán, Tàu - Ta lẫn lộn, chén chú chén anh no say, lè nhè những âm thanh nửa Hoa nửa Việt. Các ông cán bộ địa phương bình thường dốt chữ, một câu chào bằng tiếng K'Ho học mãi không nhớ được, bây giờ cũng bập bẹ vài câu "Hảo Lớ" để ra oai với "bạn Tàu" khi ăn nhậu. Cách xa những nơi náo nhiệt ấy, lác đác những tốp người dân tộc lầm lũi đi về trong bóng tối cao nguyên. ..
Sáng hôm sau, cụ già "thổ địa" cho chúng tôi mượn xe, chiếc xe nặng và to kềnh càng, không biết gọi là xe gì, nhưng có lẽ nó có từ thời Mẫu quốc Liên Xô viện trợ. Anh bạn phải mất nửa tiếng đồng hồ để nhờ ông cụ hướng dẫn, thấy sự lúng túng của chúng tôi, ông phá lên cười khoái chí "Khà khà, xe này thồ hàng thì chiến lắm đấy". Đúng là chiếc xe này thích hợp với việc chở hàng hơn là chở người.
Cô bạn mượn đâu bộ quần áo mang đến, kèm theo nụ cười tinh quái: "Mặc vào đi, cho giống người ở đây xin vào làm công nhân". Bộ quần áo dính đầy đất đỏ, mặc vào trông lem luốc và khá vô duyên so với phong cách PV CLBNBTD mà tôi luôn tự hào. Trông thấy tôi, ông lão thích thú vỗ vai đồm độp: "Đúng rồi, cho giống người địa phương. Trong đấy, bảo vệ thấy người lạ nó không cho vào đâu. Cô bé này giỏi lắm". Nhìn bộ dạng của tôi, cô nàng cười khúc khích, còn bọn bạn thì lén lút chụp hình một cách khoái chí. Chuyến đi Tây Nguyên lần này, tôi được đi chung với nhóm bạn có cái tên khá lạ là "Ngủ gật", họ đều là những người còn trẻ, rất năng động và cũng rất. ..quái.
Chiếc xe cà khổ lăn bánh một cách cà giựt chở theo một đám người ngồi chen chúc. Tiếng xe gầm rú, tiếng cô bạn la hét thất thanh, gã lái xe nghiệp dư suýt lao xuống ruộng mấy lần. Công trường nhà máy Bauxite đang xây dựng cách trung tâm chợ 5km, chúng tôi vừa đi vừa né cảnh sát giao thông. Gần đến nơi, hai người bạn xuống xe tự đi tìm hiểu, còn tôi và anh bạn cứ thế phóng thẳng vào. Có lẽ do bộ dạng giống người điạ phương, nên chúng tôi dễ dàng vượt qua nhiều chốt bảo vệ.
Khu vực công trường bao quanh bởi những cánh rừng thông đang bị chặt phá, gần đó có một đầm nước. Theo quy hoạch, vùng đầm nước này sẽ được cải tạo thành hồ chứa bùn đỏ. Không cần phải có con mắt chuyên môn, có thể dễ dàng nhận thấy vùng đầm nước này quá nhỏ bé để có thể chứa hết được khối lượng bùn đỏ khổng lồ sắp sửa thải ra.
Vào đến nơi, chúng tôi bắt gặp ngay một không khí lao động hối hả, nhộn nhịp. Một vùng đất phẳng lì ước chừng 50 ha đang được đào xới và xây cất, đất đỏ quạch lầy lội, khắp nơi ngổn ngang sắt thép, máy móc. Hầu hết các khu vực đang xây dựng được rào chắn bởi hàng dài lưới B40, bên cạnh là những dòng chữ Trung Quốc khá hoành tráng. Bên trong hàng rào, người lẫn máy móc đang làm việc hết công suất. Nhìn chung thì kỹ thuật xây dựng còn khá thô sơ, các loại máy móc cũng không có gì đặc biệt, sức người vẫn là chính, còn máy móc và vật liệu xây dựng như sắt, thép, xi-măng... đều mang từ Trung Quốc qua.
Ấn tượng nhất là việc có quá nhiều người Trung Quốc ở công trường này. Hầu như chỗ nào cũng thấy. Có cảm giác không hề có sự xuất hiện của người Việt. Công nhân Trung Quốc tràn ngập khắp công trường. Họ mang cả vợ con sang, họ sống trong các dãy nhà tập thể mọc lên san sát.
Phần lớn những công nhân này chỉ là lao động tay chân, không có trình độ. Nhìn cách làm việc thì thấy họ đều tỏ ra lười biếng, sức làm yếu và cũng hay đùa giỡn. Đứng trông coi là những viên quản đốc trông khá dữ dằn, cách đi đứng và tác phong giống một chỉ huy quân đội hơn. Chúng tôi hầu như không thể dừng lại để hỏi thăm, vì đến chỗ nào cũng gặp người Trung Quốc. Quả thật, cả một công trường rộng đến 50 ha trên đất Việt, kiếm ra một người Việt khó quá !
Đang phân vân tìm cách tiếp cận, bỗng cô bạn đang ở phía ngoài điện thoại vào:
- "Sao ? Anh em bước chân vô "Tô giới Tàu" thấy thế nào ?".
- "Ừ, công nhân Trung Quốc đông quá, tràn ngập khắp nơi".
Cô bạn nói tiếp:
-"Mình vừa bắt chuyện với một cán bộ ở đây, anh ta cho biết phía nhà thầu Chalco nói có 300 công nhân Tàu, nhưng khi chính quyền tiến hành điều tra thì phát hiện có đến 500. .."
Tôi vội cắt ngang "Làm gì có chuyện 500, hơn nhiều"
- "Ừ, mấy người bán hàng cũng nói vậy, nghe nói cả ngàn đấy...".
Hóa ra cái mà chính quyền gọi là "cuộc điều tra phát hiện" là như thế này, chỉ nhìn sơ qua cũng thấy con số công nhân TQ không thể dừng lại ở vài trăm người được. Tính một cách đơn giản, mỗi khu vực xây dựng có ít nhất trên 100 công nhân, cả công trường có gần 20 khu vực như vậy, suy ra con số công nhân TQ lên đến phải hàng ngàn người. Sự vô trách nhiệm về mặt quản lý của chính quyền địa phương là quá rõ ràng !
Chúng tôi cứ lòng vòng cả buổi mà không biết hỏi han ai, chẳng biết đi đường nào, các bảng hướng dẫn không có một chữ Việt, toàn bằng tiếng Hoa. Chúng tôi cảm thấy thật lạc lõng, giống như bước chân vào một mảnh đất lạ lẫm, với những con người xa lạ. Đang tính quay trở ra thì bất chợt tôi nghe có tiếng gọi vang lên:
- "Đi xin việc hả em trai ?"
Tiếng gọi nghe thân quen khiến tôi có cảm giác giống như đang ở một nơi nào đó xa lạ, bỗng gặp một người đồng hương. Trước mắt chúng tôi là một anh công nhân người Việt Nam mồ hôi nhễ nhại, chắc anh ta cũng chẳng hiểu tại sao khi gặp anh chúng tôi vui mừng như vậy, tôi buột miệng trả lời: "Dạ..."
-"Ở đây nó không nhận người mình đâu ! Kiếm chỗ khác đi em trai"
-"Dạ không, em đến đây để tìm người quen" Tôi vừa nói, vừa tiến đến mời anh ta điếu thuốc.
- À, mấy đứa kiếm ai ? Người mình ở đây chỉ có hai đội, khoảng gần 100 người, làm ngày nào ăn lương ngày đó
Theo lời kể của anh công nhân nọ, anh ta được nhận vào làm vì khi ấy công nhân bên Trung Quốc không qua kịp, nên phía nhà thầu buộc phải nhận một số ít lao động địa phương vào trám chỗ. Đa phần đều không có hợp đồng lao động, tiền lương thì chỉ bằng một nửa công nhân TQ, công việc chủ yếu là xây nhà và đào đất. Cậu chuyện cởi mở hơn, chúng tôi bèn hỏi thăm về những công nhân Trung Quốc
- Tụi nó qua đây muốn cưới vợ rồi ở lại đó mà. Bên đó nó ở vùng quê nghèo, đều thất nghiệp, không nhà cửa, gái nào thèm cưới. Qua đây có việc làm, lương cũng cao nữa. Nghe đâu quanh đây có mấy đứa sắp cưới vợ rồi xin ở lại luôn.
Anh còn cho biết thêm, công nhân Trung Quốc ở đây khoảng 1.500 người, trong đó có nhiều người từng là lính giải ngũ, chưa kể hàng trăm chuyên gia thường xuyên ra vào. Sắp tới sẽ có thêm một đợt công nhân nữa kéo sang với số lượng khá đông...
Nghe đến đây bất giác tôi cảm thấy bất nhẫn. Sự khó chịu trào dâng với những gì xảy ra trước mặt, đúng là không thể hiểu được việc họ khai thác bauxite sẽ mang đến lợi ích cho ai. Tôi miên man nghĩ đến một viễn cảnh đáng sợ, đó là khi mảnh đất cao nguyên đang bắt đầu bị người Trung Quốc cắm rễ mang theo thứ văn hóa ô hợp, việc khai thác Bauxite sẽ làm đất canh tác ngày càng thu hẹp, khi đất đai trở nên khô cằn, nguồn nước ô nhiễm... Phải chăng trong tương lai, Tây Nguyên phải chứng kiến những đứa con rứt ruột bỏ đi "tị nạn môi trường", hay Tây Nguyên sẽ bị giày xéo bởi một cuộc đại di dân ồ ạt từ Bắc Phương ?
Mâu thuẫn về lợi ích giữa người dân địa phương và người Trung Quốc chưa thực sự bùng phát, nhưng khả năng tiềm ẩn một cuộc xung đột lớn có thể xảy ra nếu tình trạng di dân ào ạt này tiếp diễn. Ấy là khi dân địa phương hiểu ra rằng việc khai thác Bauxite sẽ chẳng mang lại lợi ích gì, trái lại còn làm cuộc sống hỗn tạp, đất canh tác thì mất dần. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, khai thác Bauxite chỉ làm kiệt quệ đất đai, ô nhiễm môi sinh, gia tăng đói nghèo, kéo theo sự lầm than của cư dân địa phương mà thôi. Thêm vào đó, phải chứng kiến những người TQ khai thác tài nguyên trên mảnh đất của mình, trong khi bản thân bị mất công ăn việc làm, liệu họ có dễ dàng chấp nhận ?
Chia tay anh công nhân nọ, chúng tôi quay trở ra, lòng nặng trĩu. Vừa ra khỏi công trường đã gặp cô bạn đang đứng chờ, miệng cười tươi như hoa. Cả đám lại chen chúc nhau trên chiếc xe cà khổ. Chiếc xe lăn bánh qua nhà máy Bauxite Nhôm Lâm Đồng, qua những con đường đất đỏ lở lói, đến dòng suối đang ô nhiễm nặng... Thỉnh thoảng lại bắt gặp những nhóm người đang cặm cụi đo đạc, tính toán. Nghe nói người ta sẽ tiến hành san rừng, bạt núi để làm một tuyến đường tắt chuyên chở Bauxite đến Đắc Nông
Chung quanh khu vực công trường còn rất nhiều nhà dân sinh sống, những ngôi nhà nhỏ bé ẩn hiện trong mảng không gian xanh thơ mộng của những vườn chè, vườn chuối... Trong những xóm nhỏ nghèo nàn, cuộc sống trôi qua yên bình, người dân vẫn cần cù lao động, tiếng trẻ em nô đùa dưới rặng cây. Xa xa, những cô gái dân tộc với làn da ngăm đen mỉm cười e ấp khi chúng tôi vẫy tay chào...
Đất và người Tây Nguyên vốn dĩ bao dung, hiền hòa nhưng cũng dễ bị tổn thương. Một sự xáo trộn quá lớn sẽ là một sự hủy hoại khôn lường.
Tây Nguyên luôn kiêu hãnh, linh thiêng và đầy tự trọng. Sự tàn phá môi sinh và văn hóa cao nguyên này sẽ là một di họa khủng khiếp đến nhiều thế hệ.
Đừng để ngọai bang dùng lưỡi dao Bauxite chém ngang lưng Tây Nguyên, bởi bauxite chính là lưỡi dao độc.
Đừng để vết thương Tây Nguyên thêm rỉ máu, bởi vết thương nhiễm độc không bao giờ lành lặn.
Vâng, dân Việt chúng ta không cho phép điều đó xảy ra, bằng tất cả lương tâm và trách nhiệm !
Tường trình từ Tân Rai
Nhóm PV CLBNBTD
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=66768
Viễn ảnh Bauxite Việt Nam qua sự hình thành chủ nghĩa thực dân Trung Quốc tại Congo
VietCatholic News (01 May 2009 16:35)
Những tuổi thơ trong mỏ quặng
Em Adon Kalenga làm việc cho một hãng thu mua quặng. Công việc của em mỗi ngày là vác những bao quặng nặng gần 100 kí lô từ những hầm sâu, ẩm thấp đi rửa sạch và vác trở về cho chủ hãng thầu. Như em tả, cả thân thể em đều cảm thấy đau nhức và cả mười ngón tay trầy trụa sau một ngày dài rửa quặng. Em Adon Kalenga chỉ mới 13 tuổi. Trong lúc hầu hết thiếu niên cùng tuổi em trên thế giới đang đến trường thì em phải làm việc không ngưng nghỉ suốt bảy ngày mỗi tuần. Em không đủ tiền để đóng học phí, trung bình khoảng 6 Dollar một tháng. Em không có nhà ở. Đêm về, em ngủ nhiều nơi trên đường phố và cũng có khi tìm đến tạm trú trong các trại mồ côi. Cha của Adon chết khi em mới 9 tuổi. Mẹ em sau đó cũng bỏ nhà ra đi. Bà con thân thích không ai nhận nuôi dưỡng em khi chính họ còn không đủ sức nuôi con của họ. Em trở thành đứa bé mồ côi. Sau khi lang thang bụi đời một thời gian, các bạn của em gợi ý nên đi đào quặng bán lại cho các công ty thu mua Trung Quốc. Thế là em cùng các bạn đi đào quặng để kiếm sống. Trong năm đầu tiên em có lần suýt chết khi trời mưa lớn làm đất sụp thành bùn đè lên những người đang làm dưới hầm sâu. Bốn người bạn của em, Fabrice, Jean, Patient and Patrick đều bị bùn chôn sống trong tai nạn đó. Em may mắn sống sót nhưng thương tích đầy mình. Adon nói “Cuộc sống của em rất khó khăn. Em không hiểu tại sao.”
Một người bạn của Adon tên là Carlito Muamba, cũng chỉ mới 15 tuổi nhưng mỗi ngày phải chui vào những hố sâu trong lòng đất để đào bằng tay và chiếc xẻng nhỏ. Phía trên hầm không có gì che, mỗi khi đào, đất và bụi rớt xuống phủ kín chiếc đầu không tóc của em. Áo quần em biến thành màu đỏ nhưng em vẫn tiếp tục đào. Mồ hôi trộn lẫn vào bụi đỏ. Không có thang để trèo. Mỗi khi muốn vào hay ra khỏi hầm, em phải bò bằng chân tay. Và đến cuối ngày em cũng được chủ thầu phát một số tiền tương đương với 3 Dollar. Khi được hỏi lý do em làm việc cực nhọc, Carlito trả lời “em cần tiền để mua thức ăn.” Rất đông các bạn cùng tuổi em đi đào quặng.
Mặc dù trên giấy tờ Congo có ký vào hiệp ước quốc tế nghiêm cấm lao động trẻ em vị thành niên, trong thực tế chẳng bao giờ được áp dụng. Ở châu Phi giá trị của mạng sống con người rất rẻ. Nhiều chuyện còn quan trọng hơn như việc hàng trăm người trong đó có bốn trẻ em bạn của Adon, bị đất sụp chôn sống cũng chẳng được ai quan tâm nói chi là chuyện trẻ em đi làm. Bà Wangari Maathai, người phụ nữ Phi châu đầu tiên được trao giảo Nobel Hòa bình năm 2004, quy trách nhiệm không chỉ lên chính phủ Congo mà cả các công ty đầu tư cũng đã vi phạm luật lạm dụng lao động trẻ em: “Tại những quốc gia, nơi nhân quyền không được tôn trọng và người dân không thể buộc chính phủ để chịu trách nhiệm thì chính phủ của các công ty đầu tư phải đề ra những điều kiện lao động.” Chính phủ mà bà muốn nói là Trung Quốc và các công ty thu mua quặng cũng là các công ty Trung Quốc tại Congo, nhưng phía chính phủ Trung Quốc bao giờ họ cũng trả lời “đó là vấn đề của Congo, không liên quan gì đến công ty hay chính phủ Trung Quốc.”
Adon và Carlito là hai trong số 67 ngàn người Congo đang sống bằng nghề đào quặng tại tỉnh Katanga, phía nam Congo, và câu chuyện cảm động về hai em Adon Carlito do một nhóm phóng viên của hãng Bloomberg thực hiện.
Cuối tháng Tám 2008 trên báo Daily Mail ở Anh, nhà báo Peter Hitchens trong phóng sự “Làm thế nào Trung Quốc đã dựng nên một đế quốc nô lệ mới tại Phi Châu” (How China has created a new slave empire in Africa), đã mô tả đời sống của những người dân Congo mà tác giả gọi là “nghèo khổ, vô vọng, giận dữ” khi phải chui vào những hố sâu 25 mét trong những mỏ quặng bỏ hoang để tìm những mảnh quặng đồng còn sót lại, rửa sạch từ những vũng nước dơ và chất thành những kiện nặng tới hàng trăm kí-lô trên những chiếc xe đạp già nua để đem bán cho các thương gia Trung Quốc đang cần nguyên liệu. Nhiều trong số họ đã chết khi những hầm đất sụp hay bị thương nhưng không có thuốc men. Phần lớn đều có con nhỏ. Nhưng nếu họ may mắn sống sót và sau một ngày thu nhặt quặng thành công, họ kiếm được 3 Dollar để nuôi sống bản thân và gia đình trong những thôn xóm tồi tàn đầy bịnh tật. Và cũng theo phóng sự của Peter Hitchens, đời sống một người dân Congo hôm nay không khác gì của ông bà họ ở thế kỷ 18, nếu có khác chăng họ phải làm việc nhiều lần khổ hơn trong một điều kiện cũng tệ hại hơn nhiều.
Dù sao, công việc đào quặng đó cũng chỉ là một phần của các công ty thu mua tư doanh Trung Quốc, thỏa hiệp kinh tế được ký kết giữa chính phủ Congo và Trung Quốc đầu năm 2008 lớn hơn nhiều. Hiệp ước kinh tế trị giá hàng chục tỉ Dollar, có ảnh hưởng gần như hầu hết các mặt trong đời sống xã hội tại Congo không phải chỉ trong vòng 10 năm tới mà trong một thời gian rất dài và cũng không chỉ ảnh hưởng về mặt kinh tế mà cả xã hội, văn hóa, truyền thống.
Để cảm thông với số phận Congo, có lẽ nên đi ngược dòng lịch sử tìm hiểu thêm về vùng đất giàu tài nguyên nhất nhưng là một đất nước chịu đựng nhiều thiệt thòi và bất hạnh nhất trên lục địa Phi châu.
Tội ác diệt chủng bị lãng quên
Cộng hòa Dân chủ Congo (Democratic Republic of the Congo, thời Mobutu được gọi là Zaire, thường dễ bị lầm lẫn với Cộng hòa Congo hay Congo-Brazzaville) là một quốc gia vùng trung Phi, có diện tích 2.3 triệu kilô mét vuông và dân số 64 triệu theo thống kê 2008, thủ đô là Kinshasa. Congo có nhiều nguồn tài nguyên phong phú như đồng, vàng, kim cương, cao su, cobalt nhưng lợi tức đầu người hàng năm chỉ có 140 Dollar. Congo tập hợp của khoảng 200 sắc dân. Về căn bản, Congo vẫn là một quốc gia nông nghiệp nhưng từ 1985 việc đô thị hóa ngày càng gia tăng. Về mặt chính trị, chính phủ Congo hiện nay chi phối bởi hiến pháp 2006. Để đạt được một xã hội tạm yên như hiện nay, nhân dân Congo cũng đã phải trả một giá bằng máu của nhiều triệu dân Congo.
Không giống chế độ thực dân tại các nước khác được mở đầu bằng võ trang xâm lược, chế độ thực dân Bỉ có mặt tại Congo được diễn ra dưới hình thức mua bán, trao đổi giữa Henry M. Stanley, đặc sứ của vua Bỉ Leopold đệ nhị và các lãnh đạo Congo địa phương sống dọc sông Congo. Cuối năm 1884, Stanley đã ký 450 hiệp ước thay mặt cho vua Leopold. Kết quả, Congo trở thành một nước có tên gọi mỉa mai “Nước Congo Tự do” dưới quyền sở hữu cá nhân của vua Leopold với thủ đô đặt tại Boma, một quận nằm bên bờ sông Congo.
Dưới sự bóc lột sức lao động tàn nhẫn để phục vụ cho túi tham không đáy của vua Bỉ Leopold đệ nhị, người dân Congo trải qua gần một thế kỷ trong địa ngục trần gian. Nhân loại nhắc nhiều về Holocaust, diệt chủng Armenian nhưng so với tội ác của Bỉ tại Congo, số người Do Thái bị Hitler giết hay Armenian bị Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt còn thấp hơn nhiều. Khoảng một nửa dân số Congo thời bấy giờ, 10 đến 15 triệu dân, đã bị quân đội và tay sai dưới quyền của vua Leopold tàn sát. Mặc dù chưa bao giờ đặt chân đến Congo, đất nước đã là phần tài sản của ông ta. Vua Leopold đệ nhị thành lập một hệ thống lao động khổ sai trong đó con người đơn giản chỉ là một dụng cụ sản xuất. Những năm giá cao su lên cao, Leopold chỉ thị cho phu đồn điền phải tăng giờ làm việc. Những ai không làm việc được bị hành hạ bằng nhiều cách như đánh roi, tra tấn và giết chết. Nhiều cuộc nổi dậy của dân chúng đã bị quân đội riêng của vua Leopold được gọi là Lực lượng Công cộng (Force Publicque) tàn sát không thương tiếc. Quân lính trong Lực lượng Công cộng có thông lệ mỗi khi giết một kẻ chống đối, họ chặt một cánh tay mang về trình lên cấp chỉ huy để làm chứng cho số lượng đạn dược đã dùng. Nhiều lính của Leopold thích đi săn khỉ, để giải thích cho số đạn đã bắn ra, chúng đã chặt tay thường dân để đem về trình thượng cấp. Viêc chặt tay không chỉ bị xảy ra cho người lớn mà cả trẻ em vô tội. Hình phạt chặt tay này còn tồn tại đến hôm nay tai Sierra Leone là vết tích của chế độ thực dân mà vua Bỉ Leopold đã để lại tại châu Phi. Mặc dù được các nước thực dân châu Âu cố tình che đậy và dìm vào quên lãng, tội ác diệt chủng của vua Leopold đã được ghi lại trong một số tác phẩm, tiểu thuyết, hồi ký và sử học, trong đó có sử liệu Tội ác tại Congo (The crime of the Congo) của Arthur Conan Doyle xuất bản tại London ngay trong năm Leopold chết, 1909, và Bóng ma của vua Leopold (King Leopold’ Ghost) của sử gia Adam Hochschild được xuất bản năm 1999.
Congo độc lập trong nhiễu nhương, phân hóa (1960 - 1965)
Trước áp lực dư luận quốc tế và cả quốc hội Bỉ, sau 1908, Congo bị sáp nhập vào Bỉ lần nữa. Quốc gia gọi là “Nước Congo Tự do” do Leopold lập ra dần dần bị giải tán nhưng điều kiện sống của người dân Congo không phải nhờ đó mà tốt đẹp hơn. Dân Congo vẫn một nước thuộc địa, không có một chút quyền hành gì trong bộ máy hành chính từ cấp trung ương đến địa phương. Đến 1955, ngọn lửa đòi độc lập được nhen nhúm từ các nhà ái quốc Phi châu lan rộng đến nhiều nước. Tại Congo nổi bật nhất là Patrice Emery Lumumba. Sau lời hứa trao trả độc lập dành cho các quốc gia thuộc địa Pháp của Tổng thống Pháp Charles de Gaulle nhân chuyến viếng thăm Trung Congo (nay thuộc Congo) đã kích thích việc đòi hỏi tự do của quốc gia trong lục địa Phi châu. Cuối cùng, Bỉ đã quyết định trao trả độc lập cho Congo vào ngày 30 tháng 6 1960. Patrice Emery Lumumba, 35 tuổi, trở thành Thủ tướng đầu tiên. Chính sách ngu dân và cô lập Congo với thế giới bên ngoài của vua Leopold và thực dân Bỉ để lại một hậu quả vô cùng trầm trọng về mọi mặt trong đời sống xã hội Congo sau khi được trao trả độc lập. Bản thân Thủ tướng Lumumba cũng chỉ học được bốn năm tiểu học và một năm huấn luyện làm nhân viên bưu chính. Dù ít học, Lumumba là một người rất thông minh, có lòng yêu nước sâu sắc, có tài ăn nói và giàu năng lực làm việc. Năm 1958, Lumumba và một nhóm thanh niên có học thành lập Phong trào Quốc gia Congo (Movement Natioal Cogolais, MNC) và là tổ chức chính trị có nhiều ảnh hưởng trong quần chúng nhất lại Congo lúc bấy giờ. Giành được độc lập là một chuyện nhưng điều hành đất nước lại là chuyện khác. Vào 1960, cả nước Congo chỉ có 30 thanh niên là tốt nghiệp đại học và 136 học sinh hoàn tất chương trình trung học. Congo không có ngay cả một bác sĩ, không có thầy hay cô giáo và sĩ quan quân đội. Cấp cao nhất trong quân đội mà một người Congo được thăng là thượng sĩ và người đó không ai khác hơn là Joseph Mobutu, nhà độc tài sắp xuất hiện trong lịch sử Congo.
Để thay thế quân đội Bỉ, Lumumba phong Mobutu lên chức tham mưu trưởng của quân đội Congo. Trước một đất nước có chủ quyền mà coi như vô chủ với hơn 50 phe nhóm chính trị được hình thành trong giai đoạn chuyển tiếp, Thủ tướng Lumumba vốn không có thiện cảm với các đế quốc thực dân, kể cả Mỹ, đã trở nên cực đoan trong cách giải quyết những xung đột nội bộ Congo. Ông kêu gọi Liên Hiệp Quốc giúp ổn định trật tự tại Congo. Sau khi quân độc Liên Hiệp Quốc đổ bộ xuống Congo, Lumumba còn đi xa hơn khi đòi trục xuất toàn bộ quân đội Bỉ chưa rút hết khỏi Congo, nếu không ông ta sẽ cầu cứu Liên-Xô. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh đang ở cao điểm, việc Lumumba cầu cứu Liên-Xô là một thách thức lớn đối với Mỹ. Sự có mặt của Liên-Xô ngay trong trái tim của Phi châu đối với Mỹ là một sự kiện không thể chấp nhận được. Tổng thống Eisenhower không muốn thấy một Cuba tại Phi châu nên đã quyết định loại trừ Lumumba bằng mọi cách, kể cả ám sát nếu cần. Mỹ mua chuộc được Joseph Mobutu, một phụ tá tin cẩn Lumumba và cũng là đương kim tổng tham mưu trưởng quân đội để thực hiện cuộc đảo chánh không đổ máu. Một trong những hành động đầu tiên của Mobutu là trục xuất các nhà ngoại giao Liên-Xô và các quốc gia thuộc khối cộng sản ra khỏi Congo. Lumumba bị bắt, bị tù và cuối cùng bị phe Katanga thù địch thân Bỉ giết chết lúc 10 sáng 17 tháng Giêng 1961.
Việc thiếu tin tưởng vào Tây phương và Mỹ đã dẫn Lumumba đến những quyết định sai lầm, không thực tế trong thời gian ngắn lãnh đạo Congo và bản thân Lumumba cũng chịu trách nhiệm một phần không nhỏ cho tình trạng xáo trộn của Congo, tuy nhiên, không thể phủ nhận tinh thần yêu nước, lập trường chống thực dân kiên quyết mà ông đã theo đuổi từ những ngày còn nhỏ. Sau khi Lumumba bị giết hàng trăm cuộc biểu tình chống Bỉ được phát động khắp thế giới. Patrice Emery Lumumba đã trở thành biểu tượng cho khát vọng độc lập của nhân dân Congo và nhiều chính đảng tại Congo hiện nay mang tên ông. Từ đó cho đến ngày 17 tháng 5 1997, Congo nằm trong tay của nhà độc tài tham nhũng Joseph Mobutu.
Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga (1965 - 1997)
Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga hay viết gọn là Mobutu Sese Seko, với tên trong khai sinh là Joseph Mobutu sinh ngày 14 tháng 10 1930 tại Lisala, một tỉnh Congo thuộc Bỉ. Cha mất sớm nhưng Mobutu đã xoay xở để theo học trong các trường đạo cho đến khi bị trục xuất vì lý do hạnh kiểm. Mobutu đăng lính. Với trình độ học vấn sẳn có và nói thạo tiếng Pháp, trong quân đội Mobutu được huấn luyện nghề thư ký kế toán tại tổng hành dinh của Lực lượng Công cộng. Mobutu được phong tới chức thượng sĩ, chức vụ cao nhất mà một người lính Congo được phong. Sau khi trở về đời sống dân sự Mobutu đi làm báo. Với tính thông minh, lanh lợi, Mobutu quen biết nhiều người, nhiều phe nhóm trong đó có cả nhà cách mạng chống thực dân Patric Emery Lumumba lẫn các nhân viên tình báo CIA. Mặc dù chưa bao giờ trực tiếp tham gia chống thực dân hay các phong trào cách mạng giành độc lập Mobutu đã vận dụng sự quen biết để tạo một vị trí chính trị lẫn quân sự vững chắc cho mình trong giai đoạn chuyển tiếp tranh tối tranh sáng tại Congo.
Sau khi chính thức nắm toàn quyền lãnh đạo Congo từ 1965, Mobutu lần lượt loại bỏ ra ngoài vòng pháp luật tất cả đảng phái, ngoài trừ Phong trào Nhân dân Cách mạng (Movement Populaire de la Revolution, MPR) do chính ông ta lập ra. Trong suốt 32 năm cai trị Congo, Mobutu dành dụm cho mình một tài sản được ước tính khoảng 5 tỉ Dollar trên sự nghèo đói cùng cực của đại đa số dân Congo. Con số 5 tỉ này tương đương với toàn bộ số nợ mà Congo phải vay mượn thế giới.
Những lời tung hô lãnh tụ đầy tính nịnh bợ, các khẩu hiệu tuyên truyền dối trá nhưng rất êm tai Mobutu nghe được trong những dịp viếng thăm các quốc gia cộng sản như Trung Quốc, Bắc Hàn, Rumania, hấp dẫn y đến nỗi khi về nước một trong việc làm đầu tiên của Mobutu không phải xây cầu, đắp đập mà là hình thành ngay một tư tưởng Mobutu. Mobutu ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10 1971 thay cả tên nước. Báo chí quốc doanh ca tụng Mobutu như một bậc tiên tri. Mobutu, người bị tố cáo đã giao nộp Lumumba cho phe Katanga giết để tránh tiếng sát nhân, phục hồi danh dự cho Lumumba. Y làm việc này không phải phát xuất từ sự kính phục lòng yêu nước của Lumumba, mà để giải tỏa dư luận, và đồng thời để tự phong mình là nhân vật số hai trong lịch sử Congo, sau Lumumba, có công giành độc lập.
Bạn thân nhất của Mobutu là nhà độc tài Nicholas Ceauşescu của Romania. Quan hệ của hai nhà độc tài không chỉ giới hạn ở cấp đảng, nhà nước mà cả cá tính thích sùng bái cá nhân cùng cực. Mobutu cũng thán phục chính cá tính độc lập của Nicholas Ceauşescu đối với Liên-Xô. Sự thân thiết của giữa Mobutu và Nicholas Ceauşescu phổ biến đến mức trong các câu chuyện trào phúng tại Congo, Mobutu Sese Seko được gọi thành Mobutu Sesesescu. Tháng 11 1996, Laurent-Desire Kabila với sự yểm trợ của Burundi, Uganda, Rwanda, đã phát động chiến tranh được gọi là chiến tranh Congo thứ nhất nhằm lật đổ Mobutu. Mobutu đang bị bịnh ung thư tiền liệt tuyến vào giai đoạn cuối, không chống trả nổi, phải lưu đày sang Morocco và chết một thời gian ngắn sau đó.
Laurent-Desire Kabila (1997 - 2001)
Một trong những kẻ thù thuộc loại kỳ cựu của Mobutu là Laurent-Desire Kabila, một lãnh tụ cộng sản hoạt động từ thời Lumumba. Trong thời gian Lumumba làm Thủ tướng, Laurent-Desire Kabila là một lãnh tụ thanh niên có trình độ đại học của một đảng nhỏ liên minh với Phong trào Quốc gia Congo của Lumumba trong quốc hội. Khi Lumumba bị giết, Kabila trốn vào rừng và thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Congo. Với sự yểm trợ võ khí của Trung Quốc, Kabila dù chỉ mới 24 tuổi, tuyên bố thành lập chính phủ ly khai theo chế độ cộng sản tại tỉnh Nam Kivu, phía tây hồ Tanganyika.
Năm 1965, Kabila liên kết với một trong những người cộng sản nhiều huyền thoại nhất của Mỹ châu là Che Guevara. Che nhận xét, trong số những người ông ta gặp, Kabila là ngưòi có nhiều điều kiện để lãnh đạo quần chúng. Kabila có tương lai vì tuổi còn rất trẻ và từng theo học triết học tại đại học ở Pháp. Tuy nhiên, cách sống xa hoa, chìm đắm trong rượu chè và chỉ biết quanh quẩn với gái của lãnh tụ cộng sản Kabila đã làm Che thất vọng và cuối cùng bỏ đi vào cuối năm 1965. Nhà nước cộng sản nhỏ nhoi nầy bị Mobutu càn quét và tan vỡ. Báo chí và cả Mobutu đều nghĩ rằng Kabila đã chết, nhưng không, ba mươi năm sau, Kabila lại xuất hiện và lần nầy lãnh đạo một liên minh quân sự của nhiều nước dưới danh nghĩa Liên minh Các Lực lượng Dân chủ Giải phóng Congo (Alliance des Forces Democratiques pour la Liberation du Congo-Zaire). Quân đội của liên minh đánh bại quân đội của Mobutu chỉ trong vòng vài tháng, và Kabila chiếm thủ đô Kinshasa ngày 20 tháng 5 1997.
Sau khi đánh bại Mobutu, Kabila tự phong là chủ tịch nước đứng đầu một chính phủ cứu nguy dân tộc và đổi tên nước là Cộng hòa Dân chủ Congo như đang được gọi hiên nay. Cuộc đời 30 năm sống trong bí mật của Laurent-Desire Kabila cho đến nay cũng còn nhiều huyền bí vì khi còn sống Kabila thường đánh trống lảng khi được hỏi về quá khứ của mình. Tuy nhiên theo các phóng viên điều tra trong đó có ABC News, lãnh tụ cộng sản Kabila và phe phiến loạn của ông đã sống bằng việc giết voi để lấy ngà, đào mỏ, buôn vàng, kim cương qua ngã Burundi, một nước nhỏ trên biên giới phía đông của Congo và cả bắt cóc người để tống tiền, trong đó ít nhất một người là Mỹ. Nhân dân Congo tránh vỏ dưa gặp phải vỏ dừa vì tham vọng của nhà độc tài Maoist Laurent-Desire Kabila không kém gì của Mobutu. Các nhóm dân chủ thật sự đều rút ra khỏi liên minh hay bị loại bỏ. Laurent-Desire Kabila bị một cận vệ ám sát ngày 18 tháng Giêng 2001. Con trai Laurent-Desire Kabila là Joseph Kabima được trao quyền Tổng thống thay cha.
Joseph Kabila và quan hệ Trung Quốc (từ 2001)
Joseph Kabila lên kế vị cha nắm chức vụ Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo khi chỉ mới 29 tuổi. Tuổi thơ ấu của ông ta cũng có nhiều huyền bí. Joseph Kabila sinh khoảng tháng 4 1971 tại một nơi nào đó hoặc miền đông Congo hay tại Tanzania. Mẹ của ông ta là vợ thứ ba của Laurent-Desire Kabila. Tuy còn trẻ nhưng Joseph Kabila tỏ ra khôn khéo về ngoại giao hơn cha. Trong chuyến thăm viếng Mỹ theo lời mời của Tổng thống George Bush sau khi được quốc hội Congo giao quyền Tổng thống, Josehp Kabila mong muốn có một Congo hòa bình sau khi đã trải qua hai cuộc chiến, Congo thứ nhất từ 1996 đến 1997 và Congo thứ hai từ 1998 đến 2003, với trên 4 triệu người chết. Trong buổi tiếp xúc Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell, Joseph Kabila cũng hứa hẹn sẽ có những cải cách dân chủ và nhân quyền tại Congo. Tháng 12 2005, một cuộc trưng cầu dân ý Congo chấp thuận một hiến pháp mới. Josehp Kabila ghi danh ứng cử với tư cách độc lập. Đối thủ của Joseph Kabila là Jean-Pierre Bemba, cựu phó Tổng thống và cũng là bạn chiến đấu của cha ông ta. Vì vòng đầu cả hai đều không đạt tỉ lệ trên 50 phần trăm như luật bầu cử quy lịnh, cuộc bầu cử phải tiến vào vòng hai, và lần nầy Kabila đắc cử Tổng thống với 58.5 phần trăm tổng số phiếu bầu. Còn khá sớm để đánh giá Joseph Kabila liệu có trở thành một Mobutu hay Laurent-Desire Kabila hay không, nhưng có nhiều dấu hiệu cho thấy Joseph Kabila đã có nhiều thay đổi như việc sắp xếp lại cơ cấu hành chánh và cho về hưu các viên chức quá già trong hệ thống công quyền. Joseph Kabila có quan hệ mật thiết với Trung Quốc. Khi vào tuổi 25, Joseph Kabila đã từng là tư lịnh binh đoàn Kadogos nổi tiếng đánh chiếm thủ đô Kinshasa. Sau khi cha làm Tổng thống, Joseph Kabila được gởi sang Trung Quốc để theo học quân sự tại Đại học Quốc phòng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh. Xa hơn nữa, quan hệ mật thiết giữa Trung Quốc và gia đình Kabila bắt đầu từ khi Joseph Kabila chưa ra đời. Bản thân Kabila cha là một Maoist và công khai bày tỏ lòng kính phục đối Mao Trạch Đông. Trong chuyến viếng thăm Trung Quốc của Joseph Kabila vào 22 tháng 3 2002, chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân cũng nhắc lại tình hữu nghị cố cựu giữa cha con Kabila và Trung Quốc. Uống nước nhớ nguồn, Josheph Kabila cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc vì đã hết lòng ủng hộ cha con ông ta trong giai đoạn khó khăn dài trước đó.
Chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc tại Phi châu
Sau khi thiết lập chế độ cộng sản tại lục địa Trung Hoa, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu tìm cách tạo ảnh hưởng tại Phi châu thể hiện qua các chuyến viếng thăm châu Phi ba tuần của Thủ tướng Chu Ân Lai và ngoại trưởng Trần Di vào đầu năm 1964. Tuy còn rất nghèo nàn nhưng đối với các phong trào du kích tại nhiều nước Á, Phi, Trung Quốc được xem như là ngọn hải đăng cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trung Quốc sử dụng lý luận cách mạng để tạo ảnh hưởng và củng cố vị trí quốc tế qua việc khuyến khích các cuộc nổi dậy võ trang dưới hình thức cách mạng nhân dân tại các quốc gia đang đấu tranh vì độc lập hay vừa được trao trả độc lập nhưng chưa ổn định. Trong thập niên 50 và đầu thập niên 60, ngoài một số vũ khí phần lớn là chế tạo rập theo khuôn mẫu của Liên-Xô, Trung Quốc là một nước lạc hậu về kinh tế kỹ thuật. Vốn liếng và võ khí mạnh nhất của Trung Quốc là lý luận cách mạng chống thực dân đế quốc.
Tại đại hội Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 9 1962, Mao nhấn mạnh sự liên hệ giữa đấu tranh giai cấp trong nước phải được tiến hành đồng thời với việc yểm trợ các cuộc tranh đấu võ trang của các nước khác. Về mặt chính trị, Trung Quốc tích cực tham gia Hội nghị Bandung lịch sử, diễn ra từ 18 đến 24 tháng Tư 1955 tại thành phố Bandung, Nam Dương và sau đó một thời gian ngắn là sự ra đời của Phong trào các Quốc gia không Liên kết.
Về mặt quân sự, các phong trào Maoist được Trung Quốc võ trang hình thành khắp nơi, không những trong các quốc gia đang là thuộc địa, các quốc gia đã được trao trả độc lập mà cả những quốc gia chưa từng bị thuộc đia. Trung Quốc huấn luyện du kích quân thuộc phong trào FRELIMO tại Mozambique, PAIGC tại Guinea, ZANU in Rhodesia (Zimbabwe), ANC tai Nam Phi. Năm 1963, Trung Quốc gởi quân dụng và vũ khí đến các lực lượng du kích đang hoạt động tại miền đông Congo dưới sự lãnh đạo của Antoine Gizenga, nguyên là một bộ trưởng trong chính phủ Lumumba, chống lại Mobutu thân Mỹ. Điểm đặc biệt, khác với Liên-Xô và Mỹ, Trung Quốc nhắm vào các mục đích đầu tư dài hạn nên võ khí tặng cho các phong trào Maoist phần lớn đều dưới hình thức cho không.
Cuối thập niên 50, lý luận “giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc” không còn hiệu quả vì phần lớn các nước đã giành được hay được trao trả độc lập, Trung Quốc chuyển hướng đấu tranh sang việc phát động phong trào chống thực dân mới và đế quốc Mỹ. Trung Quốc cảnh cáo các nước Á, Phi, độc lập chính trị chỉ là bước đầu trong tiến trình giải phóng đất nước, quan trọng là phải có độc lập về kinh tế. Một số thỏa hiệp kinh tế, dù rất tượng trưng, đã được ký kết giữa Trung Quốc và các quốc gia như Ghana, Guinea, Mali, Tanzania. Trong nội bộ phong trào cộng sản thế giới Trung Quốc tấn công vào chủ nghĩa xét lại Khrushchev.
Để chứng tỏ Trung Quốc không chỉ là một mớ lý luận và những võ khi thô sơ, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không ngần ngại thực hiện vài đề án lớn với một số nước Phi châu như trường hợp đề án đường rầy xe lửa Tanzam nối liền Zambia và bờ phía đông của Tanzania năm 1970. Đề án Tanzam được xem như là một đề án lớn nhất của Trung Quốc thời bấy giờ với kinh phí 500 triệu Dollar để xây dựng một hệ thống đường xe lửa dài 1870 kí lô mét từ Dar es Salamm đến khu vực mỏ quặng chính của Zambia. Số nhân công được sử dụng gồm 50 ngàn tuyển mộ từ Tanzania và 25 ngàn được đưa sang từ Trung Quốc. Bất chấp nắng mưa, chết chóc, 75 ngàn người đã làm việc suốt 5 năm dài, bắt 300 cầu, đào thông 23 hầm và đặt 147 trạm xe lửa. Đề án được Trung Quốc ca ngợi như một thành công vĩ đại vào năm 1975 mặc dù Trung Quốc biết cả vốn lẫn lời có thể đều không thu lại được. Trung Quốc thực hiện đề án Tanzam không nhằm theo đuổi mục đích lợi nhuận kinh tế nhưng qua đó thiết lập một đầu cầu quan trọng cho việc đổ bộ ồ ạt vào Phi châu trong đầu thiên niên kỷ này và đồng chứng tỏ cho các lãnh đạo các nước Phi châu thấy không chỉ có Mỹ hay Liên-Xô mới khả năng thực hiện các đề án lớn.
Các chính sách đổi mới kinh tế của Đặng Tiểu Bình bắt đầu thập niên 80, về mục tiêu có nhiều thay đổi, nhưng một số điểm trong chính sách đối với châu Phi thời Mao vẫn được duy trì. Giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc sử dụng và khai thác lịch sử như một vũ khí chiến lược để phục vụ cho mục tiêu bành trướng. Trung Quốc vẫn lặp đi lặp lại khẩu hiệu hợp tác hữu nghị, tình đồng chí anh em thắm thiết giữa các quốc gia cùng cảnh ngộ được như Chu Ân Lai đã tuyên bố từ Hội nghị Bandung hơn nửa thế kỷ trước, có khác chăng các lãnh tụ phiến loạn ngày xưa nay đã là những tổng thống và Trung Quốc, lãnh tụ của thế giới thứ ba nghèo khổ, nay là một siêu cường.
Các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc
Thỏa mãn nhu cầu năng lượng và nguyên liệu
Phát triển kinh tế đòi hỏi trước hết là nguyên liệu. Sự thất thoát và lãng phí nguyên vật liệu trong sản xuất đã làm nhu cầu nguyên liệu của Trung Quốc vốn đã thiếu hụt lại càng thiếu hụt trầm trọng hơn. Để đuổi kịp các nước tư bản phát triển và vượt qua những khiếm khuyết trong sử dụng nguyên liệu, giới lãnh đạo kinh tế Trung Quốc không áp dụng các phương pháp kinh doanh truyền thống mà Mỹ và các nước Tây Âu đã và đang áp dụng. Các chuyên viên đặt hàng của các công ty Trung Quốc không ngồi trong các phòng có gắn máy lạnh, trước máy vi tính và mua nguyên vật liệt từ các thị trường nguyên liệu quốc tế mà đến tận nơi, mua tận gốc và mua với giá rẻ nhất. Tệ hại hơn cả các chế độ thực dân trước đây, Trung Quốc vơ vét đủ cách, đủ kiểu, chính thức qua các hợp đồng nhà nước và không chính thức qua trung gian các công ty thầu thu mua do người bản xứ điều hành. Các công ty Trung Quốc bất chấp các nguyên tắc, luật lệ lao động và họ không quan tâm các bao quặng kia do ai đào ra, dù từ bàn tay của một phụ nữ Congo đang cõng trên lưng một đứa bé sơ sinh hay một em Adon Kalenga chỉ mới 13 tuổi.
Giải quyết nạn thặng dư dân số tại Trung Hoa lục địa
Nội dung của chủ nghĩa bành trướng thế giới của Trung Quốc không chỉ giới hạn về kinh tế mà đồng thời để giải quyết được nạn thặng dư dân số tại nội địa Trung Quốc. Dân số Trung Quốc theo thống kê tháng 7 2008 là 1 tỉ 330 triệu người. Trong 20 năm qua, việc thực thi chính sách kiểm soát dân số mỗi gia đình một con khá hữu hiệu đã giúp mức gia tăng dân số chậm lại tại mức 0.65 phần trăm mỗi năm. Nếu cứ tiếp tục duy trì chính sách hạn chế sinh đẻ như hiện nay, nghĩa là cứ hai người lớn tuổi mới có một em bé, số lượng người già trong dân số Trung Quốc theo tỉ lệ sẽ tăng nhanh hơn số lượng trẻ em. Theo các nhà phân tích dân số, nếu mức phát triển dân số không thay đổi, trong tương lai không xa Trung Quốc sẽ là một viện dưỡng lão khổng lồ.
Việc thỏa mản các nhu cầu an sinh, xã hội, y tế cho nhiều trăm triệu người già không còn khả năng lao động, là một viễn ảnh đầy lo sợ của giới lãnh đạo Trung Quốc. Theo báo Sunday Times xuất bản tại Anh số tháng Hai 2008, một chuyên viên về Trung Quốc ước lượng rằng chính phủ Trung Quốc cần phải đưa ra khỏi Trung Hoa lục địa 300 triệu người mới có thể giải quyết nạn thặng dư dân số. Đưa đi đâu? Bất cứ nơi nào, nhưng nơi di dân thích hợp nhất của thời đại ngày nay không đâu khác hơn là Phi châu đất rộng, người thưa, tài nguyên phong phú. Trung Quốc cũng tìm cách truyền bá tiếng phổ thông Trung Quốc sang các nước Phi châu. Mặc dù rất khó học, các lớp dạy tiếng Trung Quốc được mở khắp mọi nơi. Chính phủ Trung Quốc ước lượng sẽ có 100 triệu người nước ngoài, hẳn nhiên đa số sẽ từ châu Phi, nói tiếng Trung Quốc. Tại Kenya còn có một học viện mang tên Viện Khổng Tử chuyên dạy về văn hóa và ngôn ngữ Trung Quốc.
Theo phân tích của các tác giả tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (the Center for Strategic and International Studies) trong tổng kết China the Balance Sheet, Trung Quốc là một nước già, và vào giữa thế kỷ này Trung Quốc sẽ có 349 triệu cao niên. Hệ thống dưỡng lão tại Trung Quốc ngày nay vẫn còn theo kiểu con cái phụng dưỡng cha mẹ già nhưng 30 năm nữa một người trẻ phải phụng dưỡng bốn người già. Tình trạng mất cân đối giới tính trong dân số Trung Quốc cũng là một mầm mống khác cho những bất ổn xã hội tương lai. Mặc dù trên giấy tờ chính phủ Trung Quốc nghiêm cấm việc phá thai dựa theo giới tính nhưng tình trạng phá thai một cách bất nhân khi đã biết bào thai là còn gái vẫn xảy ra rất phổ biến tại Trung Quốc. Điều đó dẫn đến tình trạng trai thừa gái thiếu. Phương pháp để giải quyết tình trạng đó là mua vợ từ các nước Á châu khác.
Xuất cảng hàng hóa tiêu dùng
Không giống các quốc gia Tây phương, viện trợ và đầu tư được tính toán một cách cân đối dựa trên nhu cầu ngắn hạn và dài hạn của một quốc gia, trong đó có đầu tư về giáo dục, huấn luyện nghề nghiệp, khoa học kỹ thuật, các đầu tư của Trung Quốc nhắm nhiều nhất vào các mục đích tiêu dùng và dịch vụ như phi trường, sân vận động. Tập sang nghiên cứu China Monitor của Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc tại Congo cho rằng việc Trung Quốc xây dựng các công trình chẳng khác mang cá đến cho người dùng mà không chỉ cho họ cách để tự đánh cá.
Như một nước nông nghiệp với nhiều triệu dân là những người tỵ nạn chiến tranh vừa mới hồi cư, sản phẩm công nghiệp Congo không phải là đối thủ cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc. Đường phố Lubumbashi, thủ phủ tỉnh Katanga, là một phố Tàu lớn với các cơ sở thương mại Trung Quốc, từ các ngân hàng, các công ty lớn cho đến các nhà hàng, tiệm ăn, tiệm tạp hóa và cả tiệm thuốc bắc. Về hàng hóa, không chỉ đồng hồ, TV, radio, điện thoại mà ngay cả loại vải truyền thống nhiều màu mà phụ nữ Phi châu ưa chuộng, vốn là đặc sản Congo, cũng được may từ Trung Quốc đem sang. Ngoài việc đánh gục hàng nội địa, các công ty Trung Quốc còn cạnh tranh với cả hàng nhập cảng. Công ty điện thoại di động Congo Chinese Telecomps (CTT) bán các điện thoại phẩm chất không thua kém các công ty lớn thế giới nhưng giá rất thấp so với các sản phẩm nhập từ Mỹ hay châu Âu.
Mua chuộc và bao che cấp lãnh đạo để khai thác lâu dài
Các lãnh đạo Phi châu không phải là không biết thâm ý của Trung Quốc nhưng họ vẫn muốn hợp tác kinh tế với Trung Quốc hơn là các nước Tây phương. Như đã trình bày trong bài trước, hợp tác với Trung Quốc, các lãnh đạo Phi châu không phải bận tâm về các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền vì chính sách của Trung Quốc không can thiệp vào nội bộ của các nước khác. Trong khi các vấn đề nhân quyền đã đẩy các công ty phương Tây ra khỏi châu Phi thì Trung Quốc trở thành nước độc quyền đầu tư và khai thác kinh tế. Ngoài ra, hợp tác với Trung Quốc không phải thông qua các thủ tục, các điệu kiện phức tạp như khi vay tiền của IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế). Thảo luận hay ký kết các hợp đồng thương mại với các công ty Trung Quốc cũng chẳng khác gì ký kết với chính phủ Trung Quốc và do đó không cần phải thông qua sự chấp thuận của chính phủ hay quốc hội, nếu có cũng chỉ là vấn đề thủ tục. Trung Quốc ưu đãi, bao che và nếu cần sẽ sẵn sàng tiếp tay cho giới lãnh đạo để đàn áp các thành phần đối lập, các tầng lớp nhân dân. Giống như chế độ thực dân đế quốc trước đây, Trung Quốc nuôi dưỡng, bao che, cung cấp cho giới lãnh đạo Phi châu tiền bạc, súng đạn, an ninh cá nhân và bảo vệ chế độ bằng sử dụng quyền phủ quyết trong các cơ quan quốc tế như Liên Hiệp Quốc.
Trung Quốc và Congo
Riêng với Congo, năm 1964, Mao Trạch Đông đã tuyên bố “Nếu chúng ta có được Congo, chúng ta sẽ có được cả Phi châu”. Về mặt lịch sử, người Trung Quốc có mặt ở Congo từ lâu lắm. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích người Trung Quốc có mặt tại Phi châu từ thế kỷ thứ sáu. Trong thế kỷ 18, thời kỳ vua Leopold cai trị Congo, nhiều ngàn người Hoa đã bị đưa tới để làm đường rầy xe lửa. Đa số đã bị chết vì đói khát hay kiệt sức lao động, một số ít sống sót đã chạy về các thành phố. Tức khắc sau khi Bỉ trao trả độc lập cho Congo, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã gởi điện văn chúc mừng Thủ tướng Lumumba và công nhận Congo độc lập. Tuy nhiên hai quốc gia sau đó đã có xung đột ngoại giao khi Tổng thống Kasavubu thiết lập quan hệ ngoại giao với Đài Loan. Để trả đũa, Trung Quốc gởi võ khí cho quân đội của Gizenga đang chống lại chính quyền Congo trung ương của Kasavubu và Mobutu.
Sau khi loại bỏ Tổng thống Kasavubu, siết chặt quyền lãnh đạo tại Congo, Mobutu bắt đầu có có tham vọng lãnh đạo cả lục địa Phi châu. Để làm được điều đó nhà độc tài xứ Congo cần phải hòa hoãn với Trung Quốc, quốc gia có ảnh hưởng nhất trong Phong trào các Quốc gia không Liên kết. Congo và Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 1972. Cũng trong năm này, Mobutu công nhận đàn em thân tín của Trung Quốc là Bắc Hàn. Mobutu thăm Trung Quốc 5 lần trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1994. Đáp lại, từ 1973, các lãnh đạo đảng và nhà nước Trung Quốc viếng thăm Congo, đầu tiên với Ngoại trưởng Hoàng Hoa thăm Congo 1978, đến phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm đến Congo 1979. Trung Quốc nắm lấy cơ hội các quốc gia dân chủ Tây phương và Mỹ dưới thời Tổng thống Jimmy Carter bắt đầu tẩy chay chế độ độc tài Mobutu để gây ảnh hưởng với Mobutu. Năm 1983, Trung Quốc tuyên bố hủy bỏ số nợ 100 triệu Dollar Congo đã vay của Trung Quốc, ngoài ra còn gởi khoảng 1 ngàn chuyên viên Trung Quốc sang làm việc trong các đề án nông và lâm nghiệp tại Congo.
Khi nhà độc tài Mobutu bị Laurent-Desire Kabila lật đổ, quan hệ hai quốc gia chẳng những không gián đoạn mà còn được củng cố vững chắc thêm. Quan hệ giữa Tổng thống Laurent-Desire Kabila và Bắc Kinh không chỉ là quan hệ giữa hai nước mà còn là quan hệ đồng chí anh em vì Laurent-Desire Kabila vốn là một nhà Maoist và đã từng được Mao yểm trợ võ khí khi còn ở trong rừng. Chỉ một thời gian ngắn sau khi lật đổ Mobutu, Tổng thống Congo Laurent-Desire Kabila lên đường viếng thăm Bắc Kinh. Khi Laurent-Desire Kabila bị ám sát, con trai của ông ta lên làm Tổng thống cũng đã thăm Trung Quốc để xin viện trợ, và đổi lại Trung Quốc được hưởng nhiều đặc quyền khai thác quặng mỏ, nhất là đồng và cobalt. Trung Quốc bắt đầu xây dựng hệ thống đường sá, khách sạn, phi trường, nhà máy điện, cơ sở giáo dục cho Congo, cũng như khai thác gỗ và dần dần lan đến các đề án nông nghiệp, ngay cả cà-phê, đường, cây trái.
Cuối tháng 9 2007, Trung Quốc ký với Congo một hợp đồng được xem là lớn nhất từ trước đến nay với một quốc gia Phi châu. Tổng giá trị của hợp đồng lên đến 9.25 tỉ Dollar. Ngân hàng Xuất nhập Cảng Trung Quốc Exim (Export-Import Bank of China) đã đồng ý cho Congo vay để tân trang hệ thống đường sá tại Congo. Đổi lại, Trung Quốc được quyền khai thác 10.6 triệu tấn đồng và 626,619 tấn cobalt. Theo nội dung của hiệp ước khai thác quặng, được đàm phán tại Bắc Kinh giữa luật sư Pual Fortin thay mặt cho công ty quốc doanh Gecamines của Congo và chính phủ Trung Quốc, số tiền sẽ được chi thành 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 3 năm phù hợp với tiến trình xây dựng và khai thác quặng mỏ. Sau thời gian 10 năm, vai trò độc quyền của Trung Quốc sẽ chấm dứt và hai quốc gia sẽ hợp tác với 2 phần 3 thuộc về Trung Quốc và 1 phần 3 thuộc về Congo, để tiếp tục khai thác quặng mỏ. Hiệp ước đã được Quốc hội Congo chấp thuận tháng 5 năm 2008.
Một số nhà phân tích cho rằng đây là một hiệp ước hai bên cùng có lợi vì Congo sẽ có một số cơ sở xây dựng mà họ chưa từng có như Tổng thống Joseph Kabila tuyên bố: “Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Congo có thể thấy những quặng đồng, kẽm của Congo đem về những kết quả tốt”. Tuy nhiên theo luật sư Georges Kapiamba, một trong số ít người đọc được nội dung của thỏa hiệp, cho rằng thỏa hiệp ký kết vào năm 2008 cũng chẳng khác gì “thỏa hiệp” mà Congo phải ký dưới thời vua Leopold đệ nhị của Bỉ. Cộng hòa Dân chủ Congo, trên thực tế sẽ bị thực dân hóa lần nữa. Có khác chăng, vua Leopold chưa bao giờ đặt chân đến Congo nhưng người Hoa sẽ tràn ngập Congo. Congo sẽ được Trung Quốc xây dựng 176 bịnh viện, hai trường đại học, một cảng, 500 chung cư. Đó là những công trình xây dựng lớn, tuy nhiên so sánh giữa gì sẽ nhận về và những gì sẽ mất đi, Congo sẽ bị thiệt hại nhiều hơn. Đừng nói gì đến chủ quyền đất nước và tài nguyên thiên nhiên, chỉ riêng về thu nhập tiền lời, với giá quặng mỏ vẫn còn cao, các nhà phân tích ước lượng, sau thời hạn 10 năm Trung Quốc sẽ thu lại từ 42 tỉ Dollar đến 90 tỉ Dollar.
Trung Quốc trong vai trò thực dân của họ, hơn ai hết mong được thấy một Cộng hòa Dân chủ Congo ổn định để khai thác tài nguyên của quốc gia này, nhưng liệu ước muốn đó có là một hiện thực hay không là điều khó ai biết trước. Lịch sử đã chứng minh Mỹ, Pháp, Anh không bao giờ nhường Phi châu cho Trung Quốc một cách dễ dàng. Khi thỏa hiệp được trình lên Quốc hội Congo tháng 5 2008, 105 nghị sĩ thuộc các đảng đối lập Congo đã bước ra khỏi phòng để phản đối. Tháng 10 2008, lực lượng Tutsi dưới quyền của tướng Laurent Nkunda đánh bại các lực lượng chính phủ Cộng hòa Dân chủ Congo và có ý định tiến về phía khu hầm mỏ Congo. Tướng Nkunda tuyên bố một trong những điều kiện đàm phán giữa ông ta và chính phủ của Tổng thống Joseph Kabila là Congo phải hủy bỏ hiệp ước 9 tỉ Dollar với Trung Quốc. Mặc dù tướng Nkunda vừa bị bắt cách đây 3 tháng nhưng các thành phần chống chính phủ vẫn còn rất mạnh. Thỏa hiệp kinh tế 9 tỉ Dollar vì thế đã trở thành con tin cho cuộc tranh chấp giữa nhiều phe phái. Máu có thể sẽ đổ lần nữa trên đất Congo và giống như hàng trăm năm qua, giọt máu đầu tiên hay cuối cùng cũng chỉ là máu của nhân dân Congo vô tội.
Và Việt Nam?
Bên cạnh nhiều điểm khác nhau về mức độ phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, địa lý chính trị, hai dân tộc Congo và Việt Nam có chung nhiều điểm bất hạnh giống nhau. Cobalt Congo và Bauxite Việt Nam đều là bước đầu của chủ nghĩa bành trướng của thực dân đỏ Trung Quốc, và viễn ảnh đen tối bị lệ thuộc lâu dài vào Trung Quốc là điều có thực. Giống như Congo, dân tộc Việt Nam cũng trải qua một cuộc chiến tranh dài, với số người chết gần bằng nhau, và cả hai dân tộc đều nằm dưới sự cai trị của một giới lãnh đạo tự nguyện đặt mình dưới sự bảo hộ của Trung Quốc. Bởi vì, chỉ có cộng sản Trung Quốc mới làm ngơ trước các hành động bỏ tù, tra tấn, chặt tay, bịt miệng người dân, chỉ có cộng sản Trung Quốc mới im lặng khi giới cầm quyền sống xa hoa, phung phí trên máu xương, mồ hôi nước mắt của nhân dân, và chỉ núp dưới bóng của cộng sản Trung Quốc giới lãnh đạo có mới thể kéo dài quyền cai trị đất nước. Giống như Congo, Việt Nam cũng có tài nguyên phong phú, nhân lực dồi dào, lẽ ra hôm nay đã thành một con rồng, con phụng ở Á châu, nhưng không, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo về kinh tế và có một cơ chế chính trị còn lạc hậu hơn cả Congo.
Dân tộc Việt Nam, sau 34 năm nguyền rủa, van xin, đánh thức lương tâm của giới lãnh đạo cộng sản bằng bao nhiêu bức tâm thư, bao nhiêu lời thỉnh nguyện. Tất cả chỉ là những giọt nước rơi vào biển cả, không tạo được âm vang, không gây nên chút sóng. Đảng Cộng sản đã chọn lựa cho họ một con đường riêng để tồn tại thì dân tộc Việt Nam cũng phải biết đứng lên để thay đổi vận mệnh của chính mình. Lịch sử nhân loại chứng minh, những kẻ độc tài thường không bước xuống theo nguyện vọng nhân dân, họ chỉ chết già trong quyền lực hay bị lật đổ.
Tham khảo
Richard Dowden, Africa, Altered States, Ordinary Miracles, Public Affairs, New York 2008
Adam Hochschild, King Leopold’s Ghost: A Story of Greed, Terror, and Heroism in Colonial Africa, Mariner Books 1999.
Arthur Conan Doyle, The Crime of the Congo, London Hutchinson & Co, 1909
Martin Meredith, The Fate of Africa, Public Affairs 2005
Princeton Lyman, Director of Africa Policy Studies, Council on Foreign Relation, China’s Rising Role in Africa, July 2005 Center for Strategic and International Studies and the Peter G. Peterson Institute for International Economics, China: The Balance Sheet, Public Affairs 2007
David Pugh, Chinese Foreign Policy during the Maoist Era and its Lessons for Today
Peter Hitchens, How China has created a new slave empire in Africa, Mail 28th September 2008
Wenran Jiang, Chinese Inroads in DR Congo: A Chinese “Marshall Plan” or Business?, The Jamestown Foundation, Jan 12 2009.
Amb David H. Shinn, China’s Relations with Zimbabwe, Sudan, and the Democratic Republic of the Congo
Hannah Edinger & Johanna Jansson, Center for Chinese Studies, China and the Democratic Republic of Congo:Partners in Development? October 2008
Simon Clark, Michael Smith and Franz Wild, China Lets Child Workers Die Digging in Congo Mines for Copper, Bloomberg, July 22 2008.
Richard Behar, Mineral Wealth of the Congo, June 1 2008
F William Engdahl, China’s US$9bn hostage in the Congo war, Asia Times, Dec 2 2008
Jon Swain, Africa, China’s new frontier Time, February, 10 2008Hình ảnh từ mục chinaafrica của website paolowoods.net
Trần Trung Đạo
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=66753
Opposition to the government’s plans for the Central Highlands is a “patriotic” duty
VietCatholic News (30 Apr 2009 17:27)
Redemptorist superior responds to media attacks against two clergymen, saying that “protecting nature and the environment is a necessary condition for human development.” One of the two under attack is on the frontline in the battle for life, something which makes the government unhappy.
Hanoi (AsiaNews) – Opposition by two Redemptorists to plans by Vietnam’s government to start open-pit bauxite mining in the Central Highlands, which led to virulent attacks from government media (protest against one of the papers pictured), is “proof of their patriotism,” said Fr Vincent Pham Trung Thanh, Redemptorist provincial superior of Vietnam, in a public statement.
Dated 28 April, the statement explained that scientists, intellectuals, former officials and countless of Vietnamese at home and abroad share the same concern and are adamantly opposed to the government’s bauxite plans for their long term detrimental and impact on the environment and society.
Citing the message of Pope Benedict XVI on World Day of Peace 2007, Fr Vincent Pham said that “there is a reciprocal connection between the ecology of nature, the human ecology, and the social ecology.”
“Experience shows that disregarding the environment always harms human coexistence, and vice versa. It becomes more and more evident that there is an inseparable link between peace with creation and peace among men. Both of these presuppose peace with God,” Fr. Vincent Pham added.
“Protecting nature and the environment is a necessary condition for human development,” he said, adding that “in any development process, in any area, the spiritual and material benefits of the whole community, especially of the poor and the underdeveloped, must be taken into account. The economy must serve the entire society and the welfare of all the members of the society, not just a privileged minority,” he stressed.
For this reason, the concerns and anxieties voiced by Fr Joseph Le Quang Uy and Fr Peter Nguyen Van Khai, the two clergymen attacked by the media, “are proof of their patriotism,” said the Redemptorist provincial superior.
Of the two priests targeted by state media and accused, among other things, of trying to overthrow the government, a crime punishable by death, one, Fr Peter Nguyen Van Khai, is also spokesman for the Thai Ha monastery and parish. The other is Fr Quang Uy, known around the country for his work with the poor and AIDS patients and for his pro-life commitment.
The government is particularly unhappy with the last activity since it views abortion as an effective means for population control. In a country 82 million people, 1.4 million abortions are carried out each year, one of the highest rates in the world.
Experts note that gender inequality, which increases the rate of sex-selection abortions, lower average age for first sexual experiences and the government’s own family planning policy are to blame instead.
Fr Joseph Uy, 50, is the spiritual leader of the ‘Disciples of Jesus’, a group that tries to bring some comfort to the poor and the homeless through small donations and persuade young women with unwanted pregnancies to give their children up for adoption rather than opt for an abortion.
In another development, Hanoi Criminal Investigation Department has repeatedly sent “urgent summoning orders” asking Fr. Peter Nguyen to be present “in person” at the department for the “clarification of a number of documents.” So far, Fr. Peter Nguyen has refused to go and has been backed by priests, religious and parishioners in Thai Ha.
In a statement released on Tuesday 28April, representatives of priests, religious and parishioners of Thai Ha parish said: “Rev. Peter Nguyen Van Khai is our appointed spokesperson for the Redemptorist monastery-Thai Ha parish. Every single document or statement produced by Rev Peter Nguyen Van Khai as our spokesperson therefore has to be understood with common sense as the reflection of the collective aspiration, will, position, view of all priests, religious, and parishioners from the Redemptorist monastery–Thai Ha parish. Rev Peter Nguyen Van Khai personally is just a member among our community who is responsible for making announcements.”
“All priests, religious and parishioners here at Redemptorist monastery-Thai Ha are in perfect unison and all responsible for any affair, policies, and actions that are pertinent to the Redemptorist monastery-Thai Ha parish,” the statement said.
It concluded saying that “Should there be any issue that [requires] the above-mentioned agencies [... ] to work with the Redemptorist monastery-Thai Ha parish, we ask that it be done with all our priests, religious and parishioners.”
Asia-News
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=66710
Những người chỉ trích bauxite
VietCatholic News (29 Apr 2009 15:21)
Chính quyền lựa chọn tăng trưởng kinh tế thách thức tinh thần bài ngoại và an toàn môi sinh.
(Tựa của The Economist)
Trong một nhà nước độc đảng mà ở đó người phê phán chính quyền thường bị tống giam, rất hiếm ai dám nói thẳng trừ những cá nhân dũng cảm hoặc liều lĩnh nhất. Ấy vậy mà việc chính phủ Việt Nam toan tính để cho một công ty Trung Quốc bắt đầu khai thác một phần trong trữ lượng lớn quặng bauxite tàng ẩn dưới vẻ xanh mướt của Cao nguyên miền Trung đã kích động một làn sóng phản đối mạnh mẽ chưa từng thấy từ nhiều thành phần xã hội. Trong số họ có danh tướng đã non trăm tuổi Võ Nguyên Giáp, nhà sư bất đồng chính kiến Thích Quảng Độ cùng một loạt chuyên gia khoa học và nhà bảo vệ môi trường.
Việt Nam được thiên nhiên ban phú một trữ lượng bauxite (quặng để luyện ra nhôm) đứng thứ ba thế giới, và chính quyền cộng sản đang nôn nóng được thu lợi từ đấy. Trong một qui hoạch mà thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gọi là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”, chính phủ đang trông ngóng sẽ thu hút được 15 tỉ đô-la đầu tư để triển khai các dự án khai thác bauxite và tinh luyện nhôm vào năm 2025. Hợp đồng với một doanh nghiệp con của Chalco – tập đoàn khai khoáng quốc doanh của Trung Hoa – để xây dựng một xí nghiệp mỏ, và cả một thoả thuận với đại gia nhôm Alcoa của Hoa Kì về nghiên cứu tính khả thi của một mỏ khác, đã được kí kết.
Các chỉ trích vạch ra rằng việc tiến hành khai thác bauxite qui mô lớn tại vùng đất hiện đang canh tác cà-phê và các cây trồng khác sẽ gây nên một hiểm hoạ không thể hối cải đối với môi trường và một cuộc di dời vô hậu các nhóm sắc tộc thiểu số đang cư trú trên Cao nguyên. Việc khai thác bauxite trên các mỏ lộ thiên sẽ để lại những vết sẹo lớn về cảnh quan. Còn quá trình tinh luyện loại quặng này sẽ sản sinh một thứ “bùn đỏ” độc hại, khi trôi vào các dòng chảy có thể gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Không chỉ có vậy, sự hiện diện của một công ty Hoa Lục trong dự án đang gây tranh cãi đã thổi bùng lên tình cảm chống Trung Quốc, người láng giềng lớn từng đô hộ Việt Nam trong 10 thế kỉ và vừa mới giao tranh với nước này trong một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu vào năm 1979. Hoà thượng Thích Quảng Độ, lãnh tụ Giáo hội Phật giáo Thống nhất đã bị cấm hoạt động, cảnh báo rằng Việt Nam “đang bị đe doạ thôn tính”, với việc “những cư xá công nhân Trung Quốc đang mọc lên như nấm trên Cao nguyên, và khoảng một vạn di dân người Hoa sẽ đến tái định cư trong năm tới.” Nhận định của ông đã được phụ hoạ lại bởi một đội quân blogger hăng hái, và một liên kết chống khai thác bauxite Tây Nguyên được thiết lập trên Facebook, một trang mạng xã hội phổ cập, đã thu hút gần 700 thành viên (vào thời điểm post bài này, số thành viên đã là gần 900 – Người dịch). Hoá ra các blogger Trung Quốc không phải là cộng đồng duy nhất được dưỡng dục tinh thần bài ngoại đầy phẫn nộ. Song le, mặc dù phần nhiều sự phản đối bị chi phối bởi tinh thần này, những quan ngại về thành tích môi trường tồi tệ của nhiều công ty khai khoáng Trung Quốc là xác thực.
Tuy nhiên, bất luận được thúc đẩy bởi động cơ nào, sự phản đối Trung Quốc của công chúng đang khiến nhà đương cục Việt Nam lo lắng. Mới đây, chính quyền đã ra lệnh đình bản tờ bán nguyệt san Du Lịch trong ba tháng do báo này đã cho đăng tải một series bài về bất đồng lãnh thổ giữa hai quốc gia. Chính quyền viện lẽ rằng Trung Quốc đang là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Việt Nam đang phải hứng chịu một thâm hụt thương mại khổng lồ với nước láng giềng phía bắc và đang hối thúc giới chức Trung Quốc đầu tư mạnh hơn để hòng được bù đắp khoản thâm hụt. Với việc đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đã thuyên giảm 40 phần trăm trong quí đầu của năm 2009 so với một năm về trước, khi mà hầu hết các nước giàu đang cạn tiền, Việt Nam lúc này cần tiền của Trung Quốc hơn bao giờ hết.
Khoét sâu hơn sự xúc phạm đối với cuộc vận động chống Trung Quốc, thủ tướng Dũng vừa mới bỏ ra cả tuần lễ trong tháng này để thăm thú Hoa Lục, ra sức hô hoán đầu tư và hứa hẹn tạo mọi thuận tiện để các công ty Trung Hoa hoạt động dễ dàng trên đất nước ông. Trong cuộc hội kiến với thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo, Dũng phát biểu rằng hai nước cần phấn đấu nâng kim ngạch thương mại song phương từ 20 tỉ đô-la năm 2008 lên 25 tỉ đô-la vào năm 2010, đồng thời nỗ lực loại bỏ sự bất cân bằng mậu dịch.
Trong hội nghị vừa qua (nhóm họp trong một ngày ở Khách sạn Meliã Hà Nội hôm mồng 9 tháng Tư – Người dịch) của các nhà khoa học đang quan ngại về hiểm hoạ môi trường, phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đã phát biểu rằng Việt Nam sẽ không theo đuổi qui hoạch khai thác bauxite “bằng mọi giá”. Song trong thời buổi quẫn bách hiện nay của nền kinh tế, kẻ ăn mày đừng hòng mơ xôi gấc!
Dịch từ “Bauxite bashers” – The Economist April 23rd 2009
La Thành
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=66662
Đừng hy vọng quốc hội sẽ vì đồng bào Tây Nguyên
VietCatholic News (29 Apr 2009 15:25)
Chuyện Bauxite đang là đề tài nóng hổi, thu hút sự chú ý của nhiều giới, nhiều ngành. Vấn đề chắc chắn sẽ còn nóng cho tới kỳ họp Quốc hội giữa tháng năm tới đây.
Sau những phản ứng dữ dội của các nhà trí thức, các nhân sĩ, các lãnh đạo tôn giáo, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản đã phải ra một thông báo (thông báo số 245 – TB/TW, ngày 24/4/2009) để gọi là “tiếp thu ý kiến phản biện của các nhà khoa học”, nhưng thực chất chỉ là để trấn an dư luận. Nội dung bản thông báo nói tới việc “sẽ trình Quốc hội dự án Bauxite trong kỳ họp tới” không đem lại cho người am hiểu tình hình chính trị xã hội Việt nam nhiều hy vọng.
Có lẽ vì biết trước điều này, nên trong Bản Kiến nghị các nhà trí thức, nhân sĩ gửi các cấp lãnh đạo Đảng cộng sản, các vị soạn thảo bản kiến nghị đã phải viết: “Kính mong Quốc Hội thấu suốt được tinh thần của đại đa số dân chúng không muốn dự án tiếp tục vì tất cả những hệ lụy nặng nề của nó”.
Thực tế, cách đây không lâu, chuyện sát nhập Hà Tây vào Hà Nội cũng gặp phải sự chống đối của nhiều giới, nhiều ngành. Những phân tích lợi hại của việc sát nhập được đưa ra bàn nghị sự. Người ta hy vọng Quốc Hội sẽ vì dân, nhưng …Hà Tây vẫn bị Hà Nội thôn tính bằng chính những cánh tay giơ cao của các ông Nghị gật, khiến cho biết bao người dân bị mất đất, mất ruộng.
Chuyện xây dựng Hội trường Ba Đình mới cũng đã từng gây nhiều tranh luận, vì đề án xây Hội trường mới sẽ xâm hại vào khu di tích Hoàng thành. Các phản biện đầy tâm huyết của các nhà khoa học, lá thư đầy nước mắt của Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc đó cũng không ngăn được những cánh tay của các ông Nghị trong kỳ họp quyết định chọn địa điểm cũ xây nhà Quốc Hội mới.
Vết nứt tại đập Thủy điện Sơn La cũng đã từng được các nhà khoa học, những người tâm huyết với dân tộc, với tiền đồ đất nước dự báo trước những nguy hiểm có thể xảy ra khi xây dựng đập thủy điện trên một vùng đất có cấu trúc địa tầng yếu như khu vực xây thủy điện Sơn La. Nếu đập thủy điện vỡ sẽ có khoảng từ 15 – 20 triệu người sẽ bị cuốn trôi theo dòng nước. Cũng giống như vụ Bauxite, vì đây là ‘chủ trương lớn của Đảng”, nên công trình vẫn đã được tiếp tục sau khi đã trình Quốc Hội.
Công trình phản ánh một cách đầy đủ việc Quốc Hội có vì dân hay không có lẽ là Nghị quyết 23/QH11/2003. Ngay sau khi Nghị quyết ra đời, báo Đại Đoàn Kết đã phải thốt lên: “Quốc Hội biết mình đang nợ dân một món nợ”.
Do đó, đừng có ai ảo tưởng mà cho rằng Quốc Hội sẽ vì dân, cũng đừng “kính mong Quốc Hội thấu suốt được tinh thần của đại đa số dân chúng.” Câu nói: “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” hay câu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chỉ là những khẩu hiệu sáo rỗng, mị dân.
Vụ Bauxite đã được chính phủ Việt Nam ký kết với Tầu cộng cách đây cả mười năm, nhưng bây giờ dân mới biết. Khi biết, dân muốn bàn thì bị kết án là kích động, chống phá nhà nước XHCN, bị đem ra đấu tố trên các phường tiện truyền thông và ngay cả vị Đại công thần của chế độ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các nhà trí thức, các văn sĩ cũng bị qui kết, chụp mũ rằng:
“Cả ba nội dung trong Bản Kiến nghị ngày 17/4/2009 của các nhà trí thức gửi các đ/c lãnh đạo Đảng và Nhà nước là không có cơ sở và đúng với tình hình thực tế, hoàn toàn mang tính bịa đặt và kích động. Điều đáng buồn là các nhà khoa học do thiếu thông tin lại đi ký vào một bản kiến nghị sai trái như vậy” (trích văn bản của Bộ Công thương).
Trong một chính thể độc đảng như chính thể Việt Nam, một Quốc hội mà do đảng cử, dân bầu chỉ là hình thức, trong đó, hơn 90% đại biểu Quốc Hội là Đảng viên Công sản, thì những gì đã được coi là “chủ trương lớn của Đảng” sẽ chẳng có ông nghị nào dám cãi lời và nhất là những chủ trương ấy sẽ đem lại lợi ích cho một nhóm thiểu số những kẻ cầm quyền mà trong đó có họ.
Bài viết của Anh Quang trên Báo Hà Nội mới, ngày 27/4/2009, cho thấy Quốc Hội Việt Nam thực chất chỉ là con rối và là trò hề, khi Anh Quang – một đảng viên bồi bút cộng sản, cả gan dám tuyên bố “vấn đề Bauxite đã được đem bàn thảo ở Quốc Hội”, trong khi nhiều vị đại biểu Quốc hội cho tới giờ này còn không biết mặt mũi Bauxite là gì và cho đến giờ này cũng không ai trong số các đại biểu Quốc Hội dám lên tiếng phản đối lời nói dối của đảng viên Anh Quang. Phải chăng nói dối, nói sai sự thật, chụp mũ các nhà trí thức, các linh mục cũng là một “chủ trương lớn của Đảng”?
Chuyện Bauxite dù nóng thế nào thì cũng phải kết thúc, nhưng kết cục ấy có thấu suốt được lòng dân hay không, có đem lại lợi ích cho dân tộc hay không, thì chắc chắn phải do dân tự quyết.
An Dân
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=66663
VIỆT NAM TRONG DÒNG THỜI SỰ
Giới trí thức, văn nghệ sĩ đồng thanh yêu cầu ngừng dự án khai thác bauxit Tây Nguyên
Thanh Phương
Bài đăng ngày 27/04/2009 Cập nhật lần cuối ngày 28/04/2009 15:11 TU
Khai thác bauxit Tây Nguyên
Bản kiến nghị đề ngày 12/4, với chữ ký của hơn 130 người đầu tiên, đa số là các nhà trí thức, văn nghệ sĩ có tên tuổi trong và ngoài nước. Sau khi nộp bản kiến nghị cho Quốc hội, ban chủ xướng tiếp tục thu thập chữ ký và chỉ vài ngày sau số người tham gia ký tên đã lên tới hơn 1.100
In bài
Gửi bài
Bình luận bài
Vào lúc dư luận Việt Nam phản đối ngày càng mạnh dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên, một nhóm trí thức gồm giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nguyên chủ tịch Hội đồng khoa học Viện Văn học, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng, trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng và nhà văn Phạm Toàn đã khởi xướng một bản kiến nghị đề ngày 12/4.
Bản kiến nghị với chữ ký của hơn 130 người đầu tiên, đa số là các nhà trí thức, văn nghệ sĩ có tên tuổi trong và ngoài nước, đã bày tỏ mối quan ngại của họ về dự án khai thác bauxit ở Tây Nguyên.
Thứ nhất là kế hoạch khai thác bauxit được công khai hóa vào cuối năm 2008, nhưng thật ra đã được ký tắt với Trung Quốc cách đây nhiều năm mà không hề được thông qua ở Quốc hội.
Thứ hai, Trung Quốc đóng cửa các mỏ bauxit trong nước để chuyển sang khai thác ở Việt Nam, đem theo gánh nặng môi trường cho các thế hệ hôm nay và mai sau ở Việt Nam, như họ đã làm ở châu Phi với sự giúp đỡ của những chế độ cai trị tham nhũng tại đây.
Thứ ba, Trung Quốc không chỉ đem theo kỹ thuật, công nghệ, mà còn đưa nhân công vào Việt Nam.
Những người ký tên vào bản kiến nghị khẳng định rằng đất nước là của chung của cả dân tộc, chứ không là của riêng của một nhóm người nào, cho nên, họ đề nghị phải đưa vấn đề dự án bauxit Tây Nguyên ra trước Quốc hội và phải dừng ngay dự án này với sự giám sát chặt chẽ, cho tới khi nào Quốc hội xem xét toàn bộ báo cáo tiền khả thi và phê chuẩn. Các tác giả bản kiến nghị còn đòi là những nghiên cứu tiền khả thi về bauxit Tây Nguyên phải được dư luận rộng rãi tham gia và theo dõi.
Sau khi ba ông Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Thế Hùng và Phạm Toàn nộp bản kiến nghị cho Quốc hội, họ tiếp tục thu thập chữ ký và chỉ vài ngày sau số người tham gia ký tên đã lên tới hơn 1.100.
Đến mức mà nhóm soạn thảo kiến nghị đã phải lập ra một blog riêng mang tên Bauxite Việt Nam ở điạ chỉ : http://vn.myblog.yahoo.com/huechivn2009 để có thể nhận thêm chữ ký. Nhưng chỉ sau vài ngày, do số người truy cập quá đông, nhóm đề xuất kiến nghị đã phải chuyển blog này thành website, http://bauxitevietnam.info/.
Một kết quả thật không ngờ, như ông Hà Si Phu đã viết trong bài phổ biến trên mạng, tựa đề '' Thấp thoáng Diên Hồng'': '' Con số một ngàn chưa có ý nghĩa gì về số lượng, nhưng là dấu hiệu chuyển biến về chất, từ vô cảm đến trách nhiệm, từ ly tán đến hợp quần, từ lo sợ kinh niên sang một xã hội dân sự tự tin, vô úy''.
Thật vậy, có lẽ đây là lần đầu tiên ở Việt Nam mà giới trí thức văn nghệ sĩ góp chung tiếng nói một cách mạnh mẽ như thế để bày tỏ thái độ bất đồng với cách hành xử của chính quyền. Cho tới nay, nói chung các nhà trí thức, văn nghệ sĩ thường chỉ lên tiếng lẻ tẻ, hoặc không dám lên tiếng vị sợ đụng chạm.
Nhà văn Xuân Đức, trong bức thư gởi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 4/3 nói về dự án bauxit, viết rằng : '' Khi chúng tôi bày tỏ suy nghĩ của mình đến một vấn đề hệ trọng của đất nước mà không thuận chiều với ý chỉ đạo của trên thì thường chúng tôi chỉ nhận được lời khuyên có tính chất răn đe.''
Hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị nghe phần phỏng vấn với giáo sư Nguyễn Huệ Chi, một trong ba người khởi xướng bản kiến nghị. Bài phỏng vấn được thực hiện vào thứ năm tuần trước :
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi - Việt Nam
27/04/2009
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi
Hiện giờ, những áp lực từ dư luận có lẽ đã phần nào có tác động lên giới lãnh đạo Việt Nam, vì Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam tuy vẫn xem khai thác bauxit là chủ trương nhất quán của Đảng, nhưng đã ra lệnh rà soát lại dự án bauxit Nhân Cơ, một trong hai dự án đầu tiên hiện đang được triển khai. Nhất là đánh giá về hiệu quả kinh tế và tác động môi trường, cũng như phải quan tâm đến việc giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên.
Tuy nhiên, để đối phó với phản ứng bất bình ngày càng lan rộng, Bộ Chính trị cũng đã yêu cầu Ban tuyên giáo trung ương chỉ đạo công tác tuyên truyền phổ biến kết luận nói trên để gọi là tạo sự '' thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội''.
Nói cách khác, những ý kiến đi ngược lại quyết định của Bộ Chính trị rất có thể sẽ không còn xuất hiện trên các trang báo chính thức.
http://www.rfi.fr/actuvi/articles/112/article_3334.asp
Đảng Bô Xít Việt Nam
VietCatholic News (27 Apr 2009 17:33)
Hàng ngàn người Việt Nam, ở trong nước và bên ngoài, đã ký tên vào bản kiến nghị yêu cầu đảng Cộng Sản Việt Nam ngưng vụ khai thác các mỏ bô xít (bauxite) ở cao nguyên Trung phần. Việc khai mỏ này đe dọa môi trường sống và tài nguyên kinh tế ở các vùng từ Tây nguyên xuống bờ biển miền Trung nước ta. Mỗi ngày càng nhiều người hưởng ứng cuộc tranh đấu của những nhà trí thức đại diện cho lương tâm dân tộc Việt. Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản vẫn cương quyết khai thác bô xít và chưa chịu lùi bước. Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng đều tuyên bố đó là một “đường lối lớn” của đảng, cho nên từ bây giờ có thể gọi tên nhóm người này là đảng Bô Xít.
Trước phong trào phản đối ngày càng lan rộng, ông Thủ Tướng Bô xít Nguyễn Tấn Dũng đã bay qua đảo Hải Nam để xin ý kiến của các đồng chí từ Bắc Kinh bay xuống. Nếu người Việt Nam ở Úc Đại Lợi (Australia) có thể mô phỏng dư luận nước này mà phong cho ông Nguyễn Tấn Dũng làm phó đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội. Giống như ông Thủ Tướng Úc Kevin Rudd đang được các đại biểu đối lập trong Quốc Hội phong cho tước hiệu Đại sứ Lưu động của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Thủ Tướng Rudd đang tính chấp thuận cho công ty Nhôm Trung Quốc (China Aluminium Corporation, viết tắt là Chinalco) mua và khai thác các quặng mỏ ở Úc, trong đó cũng có cả quặng bô xít. Tháng Sáu này hội đồng chính phủ phụ trách việc cho phép các công ty ngoại quốc đầu tư vào Úc mới quyết định về việc cho phép Chinalco mua 18% cổ phần của công ty Rio Tinto, để trở thành cổ đông với phần hùn lớn nhất hay không. Nhưng hiện nay phong trào phản đối trong dân chúng Úc đang lên cao, chắc chắn là gây ồn ào náo nhiệt hơn ở Việt Nam vì dân Úc được tự do viết báo, lên đài bầy tỏ ý kiến.
Trung Quốc có chiến lược tìm tài nguyên khắp thế giới. Từ hàng chục năm qua, Bắc Kinh cho người đi mua quyền khai thác quặng mỏ kim loại và dầu lửa ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ. Tuần báo Economist đã viết một bài nhan đề “Thực Dân Mới” với hình bìa là một đoàn người Trung Quốc cưỡi ngựa và lạc đã đi trên sa mạc ở Phi Châu, người dẫn đầu trương cao ngọn cờ ngũ tinh mầu đỏ của Trung Quốc. Trong thời đại kinh tế toàn cầu hóa này các nhà thực dân mới không cần dùng súng đạn đi xâm chiếm đất nước khác như đám thực dân vào thế kỷ 18, 19 - trừ khi họ đã dùng súng chiếm từ trước, như Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, và chiếm thêm Trường Sa năm 1988. Nhưng họ không thể sử dụng đường lối đó với các quốc gia độc lập khác. Bây giờ họ phải dùng thị trường thay cho bãi chiến trường, lấy tiền bạc (tốt nhất là dùng đô la Mỹ) làm khí giới, qua các thị trường chứng khoán họ mua cổ phần của các công ty về quặng mỏ và dầu lửa. Hoặc điều đình trực tiếp mua luôn quyền làm chủ tất cả một công ty, để được hưởng những tài nguyên mà công ty đó được quyền khai thác. Giống như năm 2005 công ty CNOOC của Trung Quốc đã toan mua Unocal của Mỹ để mua lấy quyền khai thác dầu khí của Unocal ở Trung Á, Miến Điện và Úc. Hồi đó các đại biểu Quốc Hội đã buộc chính phủ Mỹ phải tìm cách ngăn cản, cho nên Cnooc đành bỏ cuộc khi thấy gặp khó khăn.
Năm ngoái, tổng số tiền mà Trung Quốc đã chi vào việc đầu tư ở nước ngoài là 52 tỷ Mỹ kim, bằng hai phần ba tổng sản lượng nội địa của Việt Nam; trong đó hai phần ba là để nắm quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên. Trong ba tháng đầu năm 2009 họ đã bỏ ra 23 tỷ Mỹ kim trong 65 vụ thương thuyết đầu tư kiểu này. Dùng cơ cấu thị trường đi mua tài nguyên nước khác là phương pháp làm ăn lương thiện, tôn trọng luật chơi kinh tế. Nhưng chính phủ một nước mạnh như Trung Quốc vẫn có thể dùng biện pháp khác, gây ảnh hưởng trực tiếp trên chính quyền các nước khác để được ưu đãi trực tiếp khai thác lâm sản, đá quý (Miến Điện và Lào) hoặc quặng mỏ (như ở Việt Nam, Congo). Trong trường hợp đó họ chỉ dùng “diễn biến hòa bình” chứ không dùng vũ lực, mà lại không tốn tiền như khi phải mua cổ phần trên các thị trường.
Vụ Chinalco mua Rio Tinto trở thành một đề tài chính trị ở Úc vì báo chí và các đại biểu Quốc Hội Úc tìm ra rằng chưa đầy một tuần sau khi ông chủ tịch Chinalco ký giấy thuận trả gần 20 tỷ Mỹ kim để mua 18% cổ phần của Rio Tinto, thì ông ta được thăng lên cấp phụ tá bộ trưởng trong chính phủ Bắc Kinh, với trách nhiệm đi mua thêm tài nguyên các nước khác. Một điều ai cũng biết nhưng ở Úc từ trước không ai nêu ra, là Chinalco không phải là một công ty kinh doanh thuần túy. Như tất cả các xí nghiệp lớn ở Trung Quốc, họ là những cánh tay nối dài của đảng Cộng Sản và nhà nước có nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu chính trị. Cộng Sản Trung Quốc dùng các xí nghiệp quốc doanh như những đạo quân đi chiếm tài nguyên của thế giới qua thị trường kinh tế tư bản. Ông chủ tịch công ty Chinalco đóng vai trò một nhà kinh doanh khi ra nước ngoài mua bán, nhưng trong đảng Cộng Sản thì ông là một cán bộ do Bộ Chính Trị điều động.
Ông Tiêu Á Khánh (Xiao Yaqing) 49 tuổi tốt nghiệp kỹ sư vào lúc Đặng Tiểu Bình bắt đầu tư bản hóa kinh tế nước Trung Hoa. Ông leo lên dần dần trong guồng máy, được Giang Trạch Dân và Chu Dong Cơ chiếu cố cất nhắc, năm 2004 được lên làm bí thư đảng ủy công ty Chinalco. Năm đó ông đã tranh mua với 10 công ty quốc tế khác, thắng cuộc đấu thầu mua một quặng mỏ bô xít ở Úc với giá 3 tỷ đô la Mỹ. Đó cũng là thời gian Trung Quốc bắt đầu chú ý tới mỏ bô xít ở Việt Nam. Mỏ bô xít này nằm bên vùng khai thác mỏ của Rio Tinto, công ty khai thác khoáng sản lớn thứ ba trên thế giới. Năm 2007, Chinalco cộng tác với một công ty Á Rập Sau đi mua mỏ đồng ở Peru từ một công ty Canada. Họ tranh thắng dễ dàng vì họ không quản ngại trả giá cao để đạt mục đích chính trị.
Cuối năm 2007, công ty khai thác mỏ lớn nhất thế giới BHP Billiton của Anh đề nghị mua các cổ phần để chiếm đa số kiểm soát công ty Rio Tinto. Lúc đó ai cũng biết Rio Tinto đang mang những món nợ lớn tới 38 tỷ đô la Mỹ, sau khi vay để mua công ty nhôm Alcan của Canada, món nợ này khiến nhiều cổ đông lo sợ muốn bán cổ phần của họ. Nếu thành công, BHP sẽ làm chủ những mỏ sắt lớn nhất thế giới. Rio Tinto không muốn bị BHP “nuốt” cho nên đi tìm các công ty khai mỏ khác điều đình bán cổ phần cho họ, hy vọng rằng làm như vậy BHP sẽ không thể chiếm được đa số cổ phần với khả năng áp đảo. Nghe tin đó, Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Trung Quốc đã họp khẩn cấp các công ty khai mỏ, nằm trong guồng máy dưới sự điều hợp của Cơ Quan Phát Triển và Đổi Mới (NDRC) của Bắc Kinh. Chinalco được trao nhiệm vụ đóng vai “phò cứu” cho Rio Tinto bằng cách mua cổ phần của hãng này.
Để thực hiện “diễn biến hòa bình” trên, Chinalco được hai ngân hàng nhà nước Trung Quốc tài trợ, một ngân hàng do con ông Chu Dong Cơ đứng đầu, ngân hàng kia có con một người phụ tá của ông Đặng Tiểu Bình điều khiển. Tiếu Á Khánh đã mời công ty nhôm Alcoa của Mỹ hợp tác, góp một phần nhỏ trong cuộc đầu tư này để khỏi lộ liễu.
Đêm 31 Tháng Giêng năm 2008, sau khi thị trường New York và London đều đóng cửa, đích thân ông Tiếu Á Khánh cùng với các chuyên viên thị trường của công ty cố vấn đầu tư Mỹ Lehman Brothers thức suốt đêm đặt mua các cổ phần của Rio Tinto trên các thị trường quốc tế. Cứ như vậy, họ thu mua được 9% số cổ phần của Rio Tinto với số tiền 14 tỷ Mỹ kim, ngày hôm sau Chinalco trở thành cổ đông có số cổ phần lớn nhất của công ty khai mỏ Anh-Úc này. Sau đó, BHP bỏ ý định mua Rio Tinto. Nhưng cũng từ đó giá cổ phần các công ty mỏ và kim loại tụt xuống vì kinh tế thoái trào khắp nơi khiến nhu cầu kim loại đột ngột giảm bớt. Có lúc giá cổ phần xuống thấp đến mức số tiền đầu tư của Chinalco đã mua cổ phần Rio Tinto chỉ còn trị giá 4 tỷ Mỹ kim, lỗ khoảng 10 tỷ.
Nhưng địa vị của ông Tiếu Á Khánh không bị lung lay. Trái lại, ông còn nghe lời khuyên của công ty cố vấn Mỹ J.P. Morgan đề nghị tăng gấp đôi số cổ phần Chinalco làm chủ. Dịp may vừa tới, công ty Rio Tinto đang mang những món nợ lớn và tới Tháng Mười năm 2009 sẽ phải trả gần 9 tỷ đô la tiền nợ. Tháng Mười Hai năm 2008, ông Douglas Rithcie, giám đốc chiến lược của Rio Tinto đã nói chuyện với đại diện của Chianlco ở Úc, để nhờ giới thiệu với các ngân hàng Trung Quốc ngõ hầu có thể vay nợ mới trả nợ cũ.
Chinalco lúc nào cũng sẵn tiền, đã đề nghị cho Rio Tinto vay hơn 7 tỷ Mỹ kim dưới hình thức trái khoán “khả hoán” (convertible bonds), mà các trái khoán nay có thể đổi thành cổ phần của công ty Úc. Ngoài ra, Chinalco sẽ bỏ ra thêm hơn 12 tỷ đô la mua một số mỏ quặng của Rio Tinto. Ban giám đốc của công ty Úc đã chấp thuận đề nghị này, thay vì bán thêm cổ phiếu trên thị trường để gây vốn lấy tiền trả món nợ đáo hạn Tháng Mười năm nay.
Nhưng khi báo chí loan tin Chinalco sắp bỏ thêm 19.5 tỷ đô la để làm chủ 18% số cổ phần của Rio Tinto, dư luận Úc và cả thế giới phải chú ý. Người ta thấy đây không phải là một cuộc mua bán hoàn toàn vì lý do kinh tế mà đằng sau còn những ẩn ý chính trị. Nhất là khi nghe tin ông Tiếu Á Khánh được thăng quan tiến chức, thì mối nghi ngờ trên càng lớn, khiến các đại biểu Quốc Hội Úc phải chất vấn ông thủ tướng, một người nói thông thạo tiếng phổ thông Trung Quốc và đã từng làm nhà ngoại giao của Úc ở Trung Quốc trước đây. Vì vậy ông Kevin Rudd được dân Úc phong làm Đại sứ Lưu động của chính phủ Trung Quốc!
Tại Úc Nghị Sĩ Barnaby Joyce lên ti vi đặt câu hỏi: “Chính phủ Trung Quốc không bao giờ cho phép chính phủ Úc mua một mỏ kim loại ở Trung Quốc! Tại sao chúng ta lại để cho người Trung Quốc mua và kiểm soát một tài sản chiến lược của nước ta?” Ở Việt Nam nhiều người cũng muốn đặt câu hỏi giống như vậy, nhưng họ không bao giờ được nói công khai trên báo, trên đài. Vì đảng Bô Xít Việt Nam kiểm soát tất cả các phương tiện truyền thông, bịt miệng tất cả những ý kiến chống Bô xít.
Đến Tháng Sáu này chúng ta mới biết sau cùng tham vọng làm chủ một phần năm tài sản Rio Tinto của đảng Cộng Sản Trung Quốc có thành công hay không. Trong kinh tế thị trường theo lối tư bản, hiện tượng một công ty nước này làm sở hữu chủ các xí nghiệp của nước khác không làm ai ngạc nhiên. Vì đồng tiền có được tự do tìm chỗ đầu tư sinh lời cao nhất thì kinh tế thế giới mới phát triển mạnh. Nhưng trong trường hợp các công ty Trung Quốc đầu tư thì khác. Vì ai cũng biết các công ty này chỉ là dụng cụ của chính phủ Bắc Kinh để thực hiện tham vọng gây ảnh hưởng chính trị của họ.
Trong vụ khai thác Bô xít ở Việt Nam, họ có tham vọng gì, chắc chỉ có Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Trung Quốc ở Bắc Kinh biết với nhau thôi, mà Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam ở Hà Nội chưa chắc đã biết. Nhưng khi hàng ngàn nhà trí thức ở trong nước và hải ngoại đã lên tiếng yêu cầu ngưng ngay việc này, nếu đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn nhất định bịt tai không nghe thì phải đổi tên họ thành đảng Bô xít thật.
Giáo Sư Tôn Thất Thiện đang cư ngụ ở Canada đã đề nghị người Việt hải ngoại nêu vấn đề môi trường sống ở Tây nguyên bị tàn phá nếu khai thác bô xít để yêu cầu các tổ chức bảo vệ môi trường quốc tế điều tra, can thiệp và can ngăn các lãnh tụ đảng Bô xít Việt Nam. Đó là một phương pháp đấu tranh mới mà chúng ta cần vận dụng.
Ngô Nhân Dụng
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=66580
Vietnam scientists clash with government over bauxite project
VietCatholic News (26 Apr 2009 09:14)
Hanoi - Vietnamese scientists and activists have called on the government to cancel a massive bauxite mining plan in the country's Central Highlands for environmental reasons, scientists confirmed Friday.
The scientists said the calls came at a seminar organized by Vietnam's Ministry of Industry and Trade, its Federation of Technical and Science Associations, and the state-owned Vietnam National Coal and Mineral Industries Group (Vinacomin).
At the seminar in Hanoi on Thursday, many of the over 50 scientists in attendance said that Vinacomin's plans for bauxite mining and processing projects covering over 1,800 square kilometres in the mountainous Central Highlands will cause irreversible environmental damage.
'The government should rethink the way it is implementing the technology,' said Professor Pham Duy Hien, a former head of Vietnam's National Atomic Energy Academy. 'If they do it the way Vinacomin has suggested, it will cause a major disaster for us later on.'
Government officials said the mining of bauxite ore, that is used to produce aluminum, was integral to the economic guidelines Vietnam's Communist Party had laid out in its 2006 five-year plan.
'This project will bring significant benefits to the country as aluminum becomes more popular as a material for construction and airplane and car production,' said Vinacomin chairman Doan Van Kien.
Vinacomin's plan envisions exploitation of 5.4 billion tons of bauxite ore in six projects in the region until 2015.
Bauxite is generally mined in vast open pits. For each ton of aluminum produced, approximately five tons of caustic slag are created, which can degrade the environment without proper storage and revegetation.
The first two bauxite processing plants, already under construction, have been contracted to the Chinese mining company Chalco. The involvement of several thousand Chinese workers has led to nationalist opposition by some Vietnamese bloggers, who have spread rumors that the projects may lead to Chinese control over Vietnamese territory.
At the end of the conference, Deputy Prime Minister Hoang Trung Hai said Vietnam would adapt the mining plan for ecological sensitivity, but scepticism remains.
'I do not think the government will be willing to stop these projects,' said historian and National Assembly member Duong Truong Quoc, who said he found the government's presentation 'unconvincing.'
Vietnam's bauxite reserves are among the world's largest, with an estimated 8 billion tons, concentrated in the country's Central Highlands region.
M&C Business
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=66515
Chiến dịch ''Hãy gìn giữ Tây Nguyên''
VietCatholic News (26 Apr 2009 09:00)
Nhân ngày Trái đất hàng năm 22/4, tức ngày cả thế giới có các hoạt động bảo vệ môi sinh-môi trường, giới trẻ ở hải ngoại phát động chiến dịch mang tên “Hãy gìn giữ Tây Nguyên”
Chiến dịch này nhằm kêu gọi sự quan tâm về những hiểm hoạ từ dự án khai thác bauxite mà nhà nước đã đồng ý cho giới đầu tư Trung Quốc tiến hành bất chấp sự phản kháng của dư luận cũng như đông đảo giới chuyên gia trong và ngoài nước.
Nội dung của cuộc vận động “Hãy gìn giữ Tây Nguyên” ra sao, được hưởng ứng như thế nào? Những người tham gia có những hoạt động gì trong chiến dịch này?
Thông tin và tài liệu cho giới trẻ ở hải ngoại
Cuộc vận động mang tên “Hãy gìn giữ Tây Nguyên” được các bạn trẻ trong tổ chức “Mạng lưới tuổi trẻ Việt Nam lên đường” phát động.
Bạn Thanh Giang, đại diện Ban tổ chức, giới thiệu về nguyên nhân, ý nghĩa của chiến dịch này:
“Chiến dịch này tụi em nhắm vào những người trẻ ở hải ngoại nhiều. Bởi lẽ vấn đề này mặc dù được nhiều người quan tâm nhưng không có nhiều tài liệu bằng Anh ngữ cho các bạn trẻ ở hải ngoại tìm hiểu. Vì vậy, tụi em thành lập ra những nhóm trên trang web trên Facebook để nhiều bạn trẻ biết đến hơn.”
Thanh Giang nói thêm về những hoạt động của chiến dịch “Hãy gìn giữ Tây Nguyên”:
“Thứ nhất là trong ngày Trái đất 22/4, trên Facebook sẽ có những tin tức và hình ảnh giới thiệu với mọi người về vấn đề bauxite ở Tây Nguyên. Tiếp đó, chúng em kêu gọi mọi người gọi đến tập đoàn Vinacomin và Chinalco, những đơn vị đang khai thác bauxite tại Tây Nguyên, để đặt vấn đề với họ là họ có những kế hoạch gì để bảo vệ người dân và môi sinh ở đó.
Kế tiếp, chúng em liên hệ với các tổ chức bảo vệ môi sinh để hợp tác và tìm hiểu thêm mối đe doạ của bauxite. Vì tụi em chú trọng đến giới trẻ, cho nên việc giáo dục và tự giáo dục mình về vấn đề này rất quan trọng.Tụi em đã làm ra những tài liệu tiếng Việt lẫn tiếng Anh để các bạn có thể học hỏi thêm.
Ngoài ra, chúng em kêu gọi tất cả các bạn trẻ hoặc tham gia, hoặc tổ chức các buổi thảo luận tại trường của mình, trong nhóm sinh viên, bạn bè của mình để tìm hiểu thêm về vấn đề này, làm sao để hiểu rõ và lên tiếng về những việc làm trên đất nước vì hiện nay nhà nước đang có những kế hoạch không đựơc minh bạch.”
Khắp nơi trên thế giới
Về sự hưởng ứng của giới trẻ đối với cuộc vận động này, Ban tổ chức cho biết cho đến nay đã có 200 người tham gia ủng hộ từ khắp thế giới, không chỉ người Việt mà có cả người nước ngoài.
Chúng tôi có dịp hỏi thăm một trong những người trẻ hưởng ứng chiến dịch “Hãy gìn giữ Tây Nguyên” là bạn Mỹ Dung ở miền Nam California, nơi tập trung nhiều người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ. Bạn cho biết lý do bạn và các bạn bè của mình hăng hái tham gia cuộc vận động này:
“Mỹ Dung cảm thấy đây là bổn phận của mình, 1 người Việt, khi nghe thấy dự án bauxite Tây Nguyên sẽ mang lại nhiều ảnh hưởng độc hại cho sức khoẻ và đời sống của cư dân trong vùng, cũng như mối hiểm hoạ từ Trung Quốc như vụ Hoàng Sa-Trường Sa, hay thác Bản dốc.
Cho nên mình rất lo sợ Trung Quốc xâm nhập vào Tây Nguyên để lấy đi mảnh đất này. Mình cảm thấy không thể ngồi yên trước những mối lo ngại này, nên mình cùng các bạn trẻ khác đang tham gia vào cuộc vận động này.
Những tháng vừa qua, mình cùng bạn bè trao đổi thông tin bằng email, trong những buổi đi chơi với nhau cũng đem vấn đề này ra để nói chuyện. Nói chung các bạn trẻ ở hải ngoại rất quan tâm về vấn đề khai thác bauxite tại Việt Nam.”
Từ Châu Úc, bạn trẻ tên Vĩnh Tiến, một ủng hộ viên khác của chiến dịch “Hãy gìn giữ Tây Nguyên” cũng đang tích cực góp phần truyền tải những lời kêu gọi để đánh động sự quan tâm của công luận khắp nơi nhằm ngăn chặn những hiểm hoạ trông thấy từ dự án bauxite Tây Nguyên:
“Tiến đã gom góp những dữ kiện, tài liệu về bauxite, cùng với các bạn bè, gửi email đến nhiều người, dùng các phương tiện truyền thông qua mạng như Facebook, blog, để truyền bá thông tin cho nhiều người. Mong sao tạo đựơc ảnh hưởng, tác động đến chính quyền Trung Quốc và Việt Nam để nói lên những điều quan tâm.”
Đừng quên chúng tôi luôn luôn ở bên các bạn
Không sinh sống trong nước và không là những nạn nhân trực tiếp của dự án bauxite Tây Nguyên, nhưng giới trẻ hải ngoại, qua các phương tiện thông tin đa chiều, không ít người thường xuyên cập nhật tin tức và quan tâm đến những gì đang diễn ra tại Việt Nam. Là một người trong số đó, Mỹ Dung khẳng định:
“Mỹ Dung có sinh hoạt trong đoàn thanh niên Phan Bội Châu, chừng 3-4 chục bạn trẻ tham gia. Chúng em trong những buổi họp mặt luôn có những buổi thảo luận về các chuyển biến mới xảy ra tại Việt Nam.
Chúng em sử dụng những trang mạng như Facebook đưa thông tin đến cho nhiều người khác biết thêm. Cuối tuần này, nhân dịp 30/4, chúng em có tổ chức 1 buổi hội thảo lớn cho các bạn trẻ ở vùng Nam California, Hoa Kỳ, để các bạn thảo luận những vấn đề đang xảy ra trong nước, trong đó có dự án khai thác bauxite.
Từ sự quan tâm, chúng em sẽ liên lạc đến các hội đoàn bất vụ lợi, những dân biểu tại Hoa Kỳ để nhờ họ lên tiếng về vấn đề này.”
Cùng với chiến dịch “Hãy gìn giữ Tây Nguyên” nhân ngày Trái đất 22/4 năm nay, các bạn trẻ này không những mong muốn chuyển thông điệp tới thanh niên khắp nơi, mà đặc biệt còn là để thể hiện trách nhiệm của giới trẻ trước các vấn đề đáng quan tâm của đất nước:
“Dù mình ở đâu đi nữa, mình vẫn là người Việt Nam, có sự liên hệ và tình đồng bào với những người trong nước. Vì vậy, khi mình thấy họ khó khăn khi lên tiếng về quyền sống th́ ḿnh phải có trách nhiệm làm thay họ. Mong là khi người trẻ trong nước thấy nhiều người trẻ hải ngoại quan tâm đến các vấn đề trong nước thì đây là điều khích lệ cho các bạn đó.”
Trước khi chia tay với chúng tôi, cô bạn Mỹ Dung không quên gửi lời nhắn tới các bạn trẻ trong nước rằng: “Các bạn hãy lên tiếng. Các bạn ở ngoài đây sẽ luôn luôn hỗ trợ và sát cánh với các bạn để chúng ta cùng nhau bảo vệ vùng Tây Nguyên.”
Trà Mi, phóng viên đài RFA
http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=66514
The Global Daily Watch and National Security
HỒ SƠ THỀM LỤC ÐỊA và BẢN ÐỒ VIỆT NAM CỘNG HÒA VAC-NORCAL ÐỆ TRÌNH LHQ 13/5/2009
- HỒ SƠ THỀM LỤC ÐỊA và BẢN ÐỒ VIỆT NAM CỘNG HÒA VAC-NORCAL ÐỆ TRÌNH LHQ 13/5/2009
- GENEVA AGREEMENT 1954
- PARIS AGREEMENT 1973
- FOREIGN RELATIONS US AND RVN 1969-1976
- NHỮNG HOẠT ÐỘNG QUÂN SỰ TẠI BIỂN ÐÔNG và TÂY THÁI BÌNH DƯƠNG
- THE PARACEL ISLANDS
- REMARKS ON THE EAST SEA CONFLICT
- VIETNAM REVIEW - THE STRATEGIC STUDIES
- REPUBLIC OF VIETNAM MINISTRY OF FOREIGN AFFAIRS WHITE PAPER SAIGON 1975
- Archives of the Republic of Vietnam and the East Sea
- NHỮNG TÁC ÐỘNG KINH TẾ LÊN KHU VỰC BIỂN ÐÔNG
- THE RVN CULTURAL, EDUCATIONAL MUSICS
- NHỮNG TRẬN ÐÁNH QUYẾT ÐỊNH (THE DECISIVE BATTLES)
- TÀI LIỆU về TVBQGVN (VNMA Archives)
Thứ Tư, 8 tháng 9, 2010
BỘ CHÍNH TRỊ KẾT LUẬN VỀ BAUXITE 090426
chủ nhật, 26 tháng 4, 2009
BỘ CHÍNH TRỊ KẾT LUẬN VỀ BAUXITE 090426
Dự án Tân Rai tiếp tục tiến hành
Bộ Chính trị, cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa ra thông báo kết luận về việc khai thác bauxite, trong đó khẳng định đây là 'chủ trương nhất quán' của Đảng.
Giữa tháng Tư, Bộ Chính trị đã nghe Ban Cán sự đảng Chính phủ báo cáo về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxite giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025.
Thông báo đăng trên báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản, cho hay điểm đầu tiên trong kết luận của Bộ Chính trị là: "Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bauxite là chủ trương nhất quán từ Ðại hội IX và Ðại hội X của Ðảng đến nay".
Bộ Chính trị chỉ đạo "Tiếp tục thực hiện chủ trương triển khai hai dự án ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đăk Nông) do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam làm chủ đầu tư, chưa chủ trương bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân nước ngoài".
Như vậy đã có sự điều chỉnh trong chủ trương cũ là cho phép thành lập công ty cổ phần khai thác bauxite.
Chỉ đạo hồi giữa tháng Ba của Chính phủ viết: "Trong quá trình khai thác, tập đoàn Việt Nam được phép thành lập công ty cổ phần có sự tham gia của công ty nước ngoài. Chính phủ ra điều kiện phía Việt Nam giữ ít nhất 51% và phía nước ngoài không quá 40%".
"Tập đoàn Alcoa (Hoa Kỳ) do vậy có thể tham gia cổ phần vào dự án Nhân Cơ (Đăk Nông) với tỷ lệ đến 40%; và Tập đoàn luyện kim Vân Nam (Trung Quốc) có thể tham gia vào dự án Tân Rai (Lâm Đồng) với tỷ lệ không quá 20%".
Tuy nhiên nay theo chỉ đạo mới của Đảng, các công ty nước ngoài sẽ chỉ có thể làm nhà thầu.
Bộ Chính trị cũng kết luận: "Tiếp thu các ý kiến đúng đắn của các đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước, các nhà khoa học, Ban Cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo rà soát, điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp..."
Kế hoạch phát triển bauxite Tây Nguyên đã thu hút dư luận chưa từng thấy từ trước tới nay.
Nhiều nhân vật từ giới cựu quan chức, tướng lĩnh cao cấp tới các nhà khoa học hàng đầu, đấ lên tiếng phản đối các dự án mà họ cho là "chưa được cân nhắc kỹ" và có nguy cơ gây tác hại nghiêm trọng về cả môi trường, xã hội và an ninh quốc gia.
Lưu ý vấn đề
Kết luận của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản lưu ý một loạt các vấn đề trong phát triển bauxite Tây Nguyên, trong nhấn mạnh "Tây Nguyên là khu vực nhạy cảm, cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề an ninh, quốc phòng cho cả trước mắt và lâu dài, đến môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa".
Ngoài môi trường, Bộ Chính trị cũng chỉ thị lưu ý tới các khía cạnh hiệu quả kinh tế, công nghệ và nhất là việc sử dụng lao động nước ngoài "phải theo đúng quy định của pháp luật".
Tiếp tục thực hiện chủ trương triển khai hai dự án ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đăk Nông) do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam làm chủ đầu tư, chưa chủ trương bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Kết luận của Bộ Chính trị
Hai dự án bauxite đang thực hiện cần "sử dụng lao động trong nước, chỉ sử dụng lao động kỹ thuật nước ngoài khi cần thiết".
Kết luận của Bộ Chính trị viết: "Riêng Dự án Nhân Cơ, cần rà soát lại toàn bộ các vấn đề có liên quan, nhất là việc đánh giá hiệu quả kinh tế và tác động môi trường, nếu thực sự có hiệu quả và bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường thì mới tiếp tục triển khai thực hiện".
Cùng với thông báo kết luận của Bộ Chính trị, báo Đảng cũng có bài viết của tác giả Xuân Quang giải thích thêm về "sự cẩn trọng, cân nhắc kỹ lưỡng của Ðảng và Nhà nước ta trước một dự án lớn".
Tác giả này cho hay "đến ngày 24/04, số lao động Trung Quốc có mặt tại Tổ hợp bauxite Nhôm Lâm Ðồng là 583 người, trong đó có 38 nữ".
"Tại Đăk Nông, hiện nay mới có một số chuyên gia của Chalieco (nhà thầu Trung Quốc) sang làm việc với các ngành chức năng của tỉnh, chứ không có lao động phổ thông người Trung Quốc".
Tác giả Xuân Quang cảnh báo "cần cảnh giác... với những mưu toan chính trị hóa vấn đề của các thế lực thù địch, thiếu thiện chí, muốn chia rẽ nội bộ chúng ta; xuyên tạc sự thật, lợi dụng những tình cảm thiêng liêng trong trái tim, khối óc mỗi người để kích động hòng thực hiện những mưu đồ xấu xa của họ."
BỘ CHÍNH TRỊ KẾT LUẬN VỀ BAUXITE 090426
Dự án Tân Rai tiếp tục tiến hành
Bộ Chính trị, cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa ra thông báo kết luận về việc khai thác bauxite, trong đó khẳng định đây là 'chủ trương nhất quán' của Đảng.
Giữa tháng Tư, Bộ Chính trị đã nghe Ban Cán sự đảng Chính phủ báo cáo về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxite giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025.
Thông báo đăng trên báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản, cho hay điểm đầu tiên trong kết luận của Bộ Chính trị là: "Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bauxite là chủ trương nhất quán từ Ðại hội IX và Ðại hội X của Ðảng đến nay".
Bộ Chính trị chỉ đạo "Tiếp tục thực hiện chủ trương triển khai hai dự án ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đăk Nông) do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam làm chủ đầu tư, chưa chủ trương bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân nước ngoài".
Như vậy đã có sự điều chỉnh trong chủ trương cũ là cho phép thành lập công ty cổ phần khai thác bauxite.
Chỉ đạo hồi giữa tháng Ba của Chính phủ viết: "Trong quá trình khai thác, tập đoàn Việt Nam được phép thành lập công ty cổ phần có sự tham gia của công ty nước ngoài. Chính phủ ra điều kiện phía Việt Nam giữ ít nhất 51% và phía nước ngoài không quá 40%".
"Tập đoàn Alcoa (Hoa Kỳ) do vậy có thể tham gia cổ phần vào dự án Nhân Cơ (Đăk Nông) với tỷ lệ đến 40%; và Tập đoàn luyện kim Vân Nam (Trung Quốc) có thể tham gia vào dự án Tân Rai (Lâm Đồng) với tỷ lệ không quá 20%".
Tuy nhiên nay theo chỉ đạo mới của Đảng, các công ty nước ngoài sẽ chỉ có thể làm nhà thầu.
Bộ Chính trị cũng kết luận: "Tiếp thu các ý kiến đúng đắn của các đồng chí nguyên lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước, các nhà khoa học, Ban Cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo rà soát, điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp..."
Kế hoạch phát triển bauxite Tây Nguyên đã thu hút dư luận chưa từng thấy từ trước tới nay.
Nhiều nhân vật từ giới cựu quan chức, tướng lĩnh cao cấp tới các nhà khoa học hàng đầu, đấ lên tiếng phản đối các dự án mà họ cho là "chưa được cân nhắc kỹ" và có nguy cơ gây tác hại nghiêm trọng về cả môi trường, xã hội và an ninh quốc gia.
Lưu ý vấn đề
Kết luận của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản lưu ý một loạt các vấn đề trong phát triển bauxite Tây Nguyên, trong nhấn mạnh "Tây Nguyên là khu vực nhạy cảm, cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề an ninh, quốc phòng cho cả trước mắt và lâu dài, đến môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa".
Ngoài môi trường, Bộ Chính trị cũng chỉ thị lưu ý tới các khía cạnh hiệu quả kinh tế, công nghệ và nhất là việc sử dụng lao động nước ngoài "phải theo đúng quy định của pháp luật".
Tiếp tục thực hiện chủ trương triển khai hai dự án ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đăk Nông) do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam làm chủ đầu tư, chưa chủ trương bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Kết luận của Bộ Chính trị
Hai dự án bauxite đang thực hiện cần "sử dụng lao động trong nước, chỉ sử dụng lao động kỹ thuật nước ngoài khi cần thiết".
Kết luận của Bộ Chính trị viết: "Riêng Dự án Nhân Cơ, cần rà soát lại toàn bộ các vấn đề có liên quan, nhất là việc đánh giá hiệu quả kinh tế và tác động môi trường, nếu thực sự có hiệu quả và bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường thì mới tiếp tục triển khai thực hiện".
Cùng với thông báo kết luận của Bộ Chính trị, báo Đảng cũng có bài viết của tác giả Xuân Quang giải thích thêm về "sự cẩn trọng, cân nhắc kỹ lưỡng của Ðảng và Nhà nước ta trước một dự án lớn".
Tác giả này cho hay "đến ngày 24/04, số lao động Trung Quốc có mặt tại Tổ hợp bauxite Nhôm Lâm Ðồng là 583 người, trong đó có 38 nữ".
"Tại Đăk Nông, hiện nay mới có một số chuyên gia của Chalieco (nhà thầu Trung Quốc) sang làm việc với các ngành chức năng của tỉnh, chứ không có lao động phổ thông người Trung Quốc".
Tác giả Xuân Quang cảnh báo "cần cảnh giác... với những mưu toan chính trị hóa vấn đề của các thế lực thù địch, thiếu thiện chí, muốn chia rẽ nội bộ chúng ta; xuyên tạc sự thật, lợi dụng những tình cảm thiêng liêng trong trái tim, khối óc mỗi người để kích động hòng thực hiện những mưu đồ xấu xa của họ."
Ngô Bảo Châu Kính gửi Quí vị Đại biểu Quốc hội khóa 12
Về Báo cáo số 91/BC-CP ngày 22-5-2009 của Chính phủ gửi Quốc hội:
GS TSKH Ngô Bảo Châu
Thư viết từ Princeton, ngày 27 tháng 5 năm 2009
Kính gửi Quí vị Đại biểu Quốc hội khóa 12:
Đã có khá nhiều phản biện thuyết phục về kinh tế, ảnh hưởng môi trường và an ninh của dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, tôi không có gì bổ sung thêm. Tôi mạn phép cầm bút viết cho Quí vị với tư cách là một công dân suy nghĩ và trăn trở với vận mệnh của đất nước. Phần lớn các Quí vị cũng như tôi không phải chuyên gia trong các vấn đề kể trên, nhưng với những tư liệu được cung cấp, chúng ta có thể chắt lọc một số sự thật hiển nhiên, gọi chúng bằng tên của chúng, sắp xếp chúng một cách có logic để mỗi người có thể có quan điểm riêng của mình. Đó là phương pháp làm việc khoa học mà qua trải nghiệm hàng ngày trong công việc của một nhà toán học, tôi biết nó không dễ dàng. Nhưng đó chính là trách nhiệm mà Nhân dân đã phó thác lên vai của Quí vị.
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc dài và sâu như chính lịch sử Việt Nam. Người Việt Nam có phông văn hóa, cách suy nghĩ và ứng xử nhiều phần giống người Trung Quốc, không ít người Việt Nam có tổ tiên đến từ Trung Quốc. Quan hệ với Trung Quốc vừa là một phần hữu cơ vừa là một nguy cơ cho sự tồn vong của bản sắc Việt Nam. Đây là một dữ kiện lịch sử mà ta không nên mất thời gian bàn xem nó tốt hay xấu, đáng vui hay đáng buồn, mà dành thời gian để suy nghĩ đến hệ quả của nó. Suy nghĩ nghiêm túc có hệ thống tránh cho ta việc trong thời bình lại ứng xử tình thế như trong thời chiến: lúc thì “môi hở răng lạnh”, lúc lại xua đuổi Hoa kiều mà nhiều gia đình đã gắn bó với mảnh đất này qua nhiều thế hệ.
Cái tôi muốn đề cập đến trong bức thư này không phải là quan hệ giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc mà là chính sách “thực dân mới” của chính quyền Trung Quốc. Cũng như các nước Anh, Pháp trong thế kỷ 19, Mỹ trong thế kỷ 20, công nghiệp Trung Quốc trong thế kỷ 21 phát triển như vũ bão. Hệ quả hiển nhiên là Trung Quốc hôm nay, cũng như các nước kể trên hôm qua, đói nhiên liệu, nguyên liệu và thị trường tiêu thụ các sản phẩm của mình. Như trong sách lịch sử cho học sinh phổ thông, ta gọi các nước Anh, Pháp cho quân đi chiếm thuộc địa là chính sách thực dân cũ, Mỹ trong thế kỷ 20 và Trung Quốc hôm nay dùng uy thế chính trị và kinh tế để dành nhiên liệu nguyên liệu và thị trường là chính sách “thực dân mới”. Đây cũng là một dữ kiện lịch sử mà ta không nên mất thời gian bàn xem thực dân cũ, mới là tốt hay xấu, gọi tên như thế có quá đáng hay không, mà dành thời gian để suy nghĩ đến hệ quả của nó. Hệ quả cho các nước bị thực dân như ở châu Phi thì ta biết: tài nguyên khai thác bừa bãi, môi trường tàn phá, kinh tế phát triển lệch lạc do quá phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên kéo theo tệ tham nhũng và bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng.
Trung Quốc thực hiện chính sách “thực dân mới” một cách có hệ thống ở châu Phi, châu Mỹ La tinh và mọi nơi có nhiên liệu, khoáng sản trong đó có Việt Nam. Trong trường hợp của Việt Nam, ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc có thể kéo thêm hệ quả nguy hiểm sau đây: quan hệ hữu cơ vốn có của văn hóa Trung Quốc với văn hóa Việt Nam trở thành đô hộ văn hóa. Đất nước, con người, văn hóa Trung Quốc có nhiều thứ để ta cảm phục và học tập. Nhưng nếu ta rập khuôn theo mô hình của họ, đi theo con đường họ đã đi, làm theo cái họ nói tức là cái họ muốn, thì ta chỉ nhận phần thiệt thòi, còn bản sắc ta thì tồn vong được bao lâu. Vấn đề độc lập văn hóa, giữ gìn bản sắc vô cùng hệ trọng, xin Quí vị lưu ý…
Xin quay lại vấn đề khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Đọc tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc năm 2001 khi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh sang thăm Trung Quốc và năm 2006 khi Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam, ta nhận thấy một điều hiển nhiên là Trung Quốc rất quan tâm đến tài nguyên này và muốn ta khai thác bằng được. Trong những trường hợp như vậy, chỉ suy diễn ta cũng thấy việc này có lợi cho họ nhiều hơn cho ta.
Tuy nhiên, suy diễn thôi không đủ. Nghiên cứu kỹ Báo cáo của Chính phủ và các phản biện đặc biệt quan tâm đến những con số, cá nhân tôi có ý kiến sau đây:
1) Dữ kiện chính của vấn đề là Việt Nam có nguồn tài nguyên bô-xít lớn thứ ba thế giới chủ yếu tập trung ở Tây Nguyên. Dữ kiện này kéo theo sự quan tâm của các nước công nghiệp đói bô-xít chứ không kéo theo ta phải khai thác bô-xít. Về phía ta, dữ kiện trên kéo theo ta có thể lựa chọn có khai thác bô-xít hay không và nếu có, ta có thể lựa chọn thời điểm và qui mô thích hợp.
2) Báo cáo của Chính phủ cho biết qui hoạch bô-xít được lập trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng. Tại thời điểm này, kinh tế toàn cầu đi vào khủng hoảng, có nguy cơ kéo dài.
Dữ kiện chính về kinh tế vĩ mô không còn đúng nữa, không rõ hiệu quả kinh tế đã được tính toán lại như thế nào. Trong báo cáo của Chính phủ, phần chắc chắn là phần lỗ những năm đầu, vì là lỗ kế hoạch. Ngay cả tính toán giả định ta cũng chưa rõ là sẽ lỗ kế hoạch bao nhiêu năm. Phần lãi sau đó phụ thuộc vào nhiều giả thiết: giá nhôm tăng trở lại, mưa đủ để có nước rửa quặng, nhà nước đầu tư thêm vào đường sắt để vận chuyển quặng. Nếu cứ cho mỗi giả thiết xác suất 50-50 như cách diễn đạt của lãnh đạo Than- Khoáng sản, xác suất có lãi sau một số năm lỗ kế hoạch, nhiều nhất là một phần tám, chưa tính đến chi phí cho môi trường.
3) Diện tích sử dụng cho khai thác bô-xít dự kiến là 8,6% tỉnh Đắc Nông là một con số khổng lồ nếu ta nghĩ đó là 8,6 m2 trên tổng diện tích 100 m2 nhà của ta.
4) Báo cáo cho biết khai thác bô-xít không thể tránh khỏi ảnh hưởng nhất định đến môi trường và có nêu một số giải pháp công nghệ khắc phục. Trong các phản biện có nêu khó khăn đặc thù của ta là khai thác bô-xít ở đầu nguồn một số sông lớn như sông Đồng Nai, chưa có tiền lệ trên thế giới. Cá nhân tôi băn khoăn nhất chỗ thiếu hoàn toàn dự toán chi phí cho việc bảo vệ môi trường. Ngay trong nhưng trường hợp đơn giản hơn như Vedan, công nghệ thì đã có, nhưng vi phạm môi trường thì vẫn đỡ được 30% chi phí. Như vậy phần ảnh hưởng đến môi trường là phần chắc, phần bảo vệ môi trường còn phụ thuộc vào nhiều giả thiết, có cái phụ thuộc vào ta (chọn công nghệ), có cái không phụ thuộc vào ta (thời tiết, địa thế), có cái ta chưa tính toán đến (chi phí), vì vậy rất đáng lo.
5) Báo cáo cho biết dự án có ảnh hưởng tốt cho xã hội, cụ thể tạo ra hàng ngàn công ăn việc làm cho nhân dân địa phương. Nếu so sánh với mức đầu tư hàng tỉ đô-la Mỹ, thì có nhiều cách hay hơn, an toàn hơn, hiệu quả kinh tế nhãn tiền hơn, để tạo vài ngàn việc làm. Lưu ý con số công ăn việc làm trong báo cáo tương đương với con số hộ dân bị di chuyển. Còn viễn cảnh xây dựng trung tâm dịch vụ, khách sạn, du lịch và giải trí xung quanh hồ chứa bùn đỏ, theo tôi, ít có sức thuyết phục.
Xin nhắc lại, cũng như phần đông Quí vị, tôi không phải chuyên gia ngành khai thác khoáng sản, nhưng qua nghiên cứu kỹ Báo cáo của Chính phủ và các phản biện của nó, tôi nhận thấy trong Quy hoạch chung khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, phần có hại thì cầm chắc, phần có lợi thì mong manh. Bối cảnh kinh tế thế giới rất không thuận lợi cho khai thác nguyên liệu thô, vậy cái gì thúc đẩy ta triển khai khai thác ào ạt vào thời điểm này.
Khác với các nước Châu Phi thế kỷ 19, đất nước chúng ta là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Quí vị, phần nhiều ở tuổi cha, tuổi chú của tôi, biết rõ hơn tôi: độc lập chủ quyền của ta không phải tự nhiên mà có. Nước ta có một Quốc hội do nhân dân bầu ra, một Chính phủ do Quốc hội chỉ định, một Quân đội phục tùng Chính phủ. Đó là một thành quả cũng không phải tự nhiên mà có.
Tôi kính mong Quí vị bỏ thời gian, nghiên cứu tường tận Báo cáo dự án khai thác bô-xít Tây Nguyên, các phản biện khoa học của nó, lắng nghe ý kiến cử tri và suy nghĩ đến sự tồn vong của đất nước, để rồi xây dựng quan điểm riêng của Quí vị, trình bày nó rõ ràng trong nghị sự của Quốc hội và chịu trách nhiệm về nó trước các cử tri. Tôi rất biết đây là việc khó, nhưng dù Quí vị muốn hay không muốn, nhân dân đã đặt niềm tin lên vai của Quí vị.
GS. TSKH Ngô Bảo Châu
Giáo sư toán học Đại học Paris 11, Pháp,
Thành viên của Institute for Advanced Study, Princeton, Mỹ.
Địa chỉ hiện tại:
School of Mathematics
Institute for Advanced Study
Einstein Drive
Princeton NJ 08540 U.S.A.
GS TSKH Ngô Bảo Châu
Thư viết từ Princeton, ngày 27 tháng 5 năm 2009
Kính gửi Quí vị Đại biểu Quốc hội khóa 12:
Đã có khá nhiều phản biện thuyết phục về kinh tế, ảnh hưởng môi trường và an ninh của dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, tôi không có gì bổ sung thêm. Tôi mạn phép cầm bút viết cho Quí vị với tư cách là một công dân suy nghĩ và trăn trở với vận mệnh của đất nước. Phần lớn các Quí vị cũng như tôi không phải chuyên gia trong các vấn đề kể trên, nhưng với những tư liệu được cung cấp, chúng ta có thể chắt lọc một số sự thật hiển nhiên, gọi chúng bằng tên của chúng, sắp xếp chúng một cách có logic để mỗi người có thể có quan điểm riêng của mình. Đó là phương pháp làm việc khoa học mà qua trải nghiệm hàng ngày trong công việc của một nhà toán học, tôi biết nó không dễ dàng. Nhưng đó chính là trách nhiệm mà Nhân dân đã phó thác lên vai của Quí vị.
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc dài và sâu như chính lịch sử Việt Nam. Người Việt Nam có phông văn hóa, cách suy nghĩ và ứng xử nhiều phần giống người Trung Quốc, không ít người Việt Nam có tổ tiên đến từ Trung Quốc. Quan hệ với Trung Quốc vừa là một phần hữu cơ vừa là một nguy cơ cho sự tồn vong của bản sắc Việt Nam. Đây là một dữ kiện lịch sử mà ta không nên mất thời gian bàn xem nó tốt hay xấu, đáng vui hay đáng buồn, mà dành thời gian để suy nghĩ đến hệ quả của nó. Suy nghĩ nghiêm túc có hệ thống tránh cho ta việc trong thời bình lại ứng xử tình thế như trong thời chiến: lúc thì “môi hở răng lạnh”, lúc lại xua đuổi Hoa kiều mà nhiều gia đình đã gắn bó với mảnh đất này qua nhiều thế hệ.
Cái tôi muốn đề cập đến trong bức thư này không phải là quan hệ giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc mà là chính sách “thực dân mới” của chính quyền Trung Quốc. Cũng như các nước Anh, Pháp trong thế kỷ 19, Mỹ trong thế kỷ 20, công nghiệp Trung Quốc trong thế kỷ 21 phát triển như vũ bão. Hệ quả hiển nhiên là Trung Quốc hôm nay, cũng như các nước kể trên hôm qua, đói nhiên liệu, nguyên liệu và thị trường tiêu thụ các sản phẩm của mình. Như trong sách lịch sử cho học sinh phổ thông, ta gọi các nước Anh, Pháp cho quân đi chiếm thuộc địa là chính sách thực dân cũ, Mỹ trong thế kỷ 20 và Trung Quốc hôm nay dùng uy thế chính trị và kinh tế để dành nhiên liệu nguyên liệu và thị trường là chính sách “thực dân mới”. Đây cũng là một dữ kiện lịch sử mà ta không nên mất thời gian bàn xem thực dân cũ, mới là tốt hay xấu, gọi tên như thế có quá đáng hay không, mà dành thời gian để suy nghĩ đến hệ quả của nó. Hệ quả cho các nước bị thực dân như ở châu Phi thì ta biết: tài nguyên khai thác bừa bãi, môi trường tàn phá, kinh tế phát triển lệch lạc do quá phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên kéo theo tệ tham nhũng và bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng.
Trung Quốc thực hiện chính sách “thực dân mới” một cách có hệ thống ở châu Phi, châu Mỹ La tinh và mọi nơi có nhiên liệu, khoáng sản trong đó có Việt Nam. Trong trường hợp của Việt Nam, ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc có thể kéo thêm hệ quả nguy hiểm sau đây: quan hệ hữu cơ vốn có của văn hóa Trung Quốc với văn hóa Việt Nam trở thành đô hộ văn hóa. Đất nước, con người, văn hóa Trung Quốc có nhiều thứ để ta cảm phục và học tập. Nhưng nếu ta rập khuôn theo mô hình của họ, đi theo con đường họ đã đi, làm theo cái họ nói tức là cái họ muốn, thì ta chỉ nhận phần thiệt thòi, còn bản sắc ta thì tồn vong được bao lâu. Vấn đề độc lập văn hóa, giữ gìn bản sắc vô cùng hệ trọng, xin Quí vị lưu ý…
Xin quay lại vấn đề khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Đọc tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc năm 2001 khi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh sang thăm Trung Quốc và năm 2006 khi Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam, ta nhận thấy một điều hiển nhiên là Trung Quốc rất quan tâm đến tài nguyên này và muốn ta khai thác bằng được. Trong những trường hợp như vậy, chỉ suy diễn ta cũng thấy việc này có lợi cho họ nhiều hơn cho ta.
Tuy nhiên, suy diễn thôi không đủ. Nghiên cứu kỹ Báo cáo của Chính phủ và các phản biện đặc biệt quan tâm đến những con số, cá nhân tôi có ý kiến sau đây:
1) Dữ kiện chính của vấn đề là Việt Nam có nguồn tài nguyên bô-xít lớn thứ ba thế giới chủ yếu tập trung ở Tây Nguyên. Dữ kiện này kéo theo sự quan tâm của các nước công nghiệp đói bô-xít chứ không kéo theo ta phải khai thác bô-xít. Về phía ta, dữ kiện trên kéo theo ta có thể lựa chọn có khai thác bô-xít hay không và nếu có, ta có thể lựa chọn thời điểm và qui mô thích hợp.
2) Báo cáo của Chính phủ cho biết qui hoạch bô-xít được lập trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng. Tại thời điểm này, kinh tế toàn cầu đi vào khủng hoảng, có nguy cơ kéo dài.
Dữ kiện chính về kinh tế vĩ mô không còn đúng nữa, không rõ hiệu quả kinh tế đã được tính toán lại như thế nào. Trong báo cáo của Chính phủ, phần chắc chắn là phần lỗ những năm đầu, vì là lỗ kế hoạch. Ngay cả tính toán giả định ta cũng chưa rõ là sẽ lỗ kế hoạch bao nhiêu năm. Phần lãi sau đó phụ thuộc vào nhiều giả thiết: giá nhôm tăng trở lại, mưa đủ để có nước rửa quặng, nhà nước đầu tư thêm vào đường sắt để vận chuyển quặng. Nếu cứ cho mỗi giả thiết xác suất 50-50 như cách diễn đạt của lãnh đạo Than- Khoáng sản, xác suất có lãi sau một số năm lỗ kế hoạch, nhiều nhất là một phần tám, chưa tính đến chi phí cho môi trường.
3) Diện tích sử dụng cho khai thác bô-xít dự kiến là 8,6% tỉnh Đắc Nông là một con số khổng lồ nếu ta nghĩ đó là 8,6 m2 trên tổng diện tích 100 m2 nhà của ta.
4) Báo cáo cho biết khai thác bô-xít không thể tránh khỏi ảnh hưởng nhất định đến môi trường và có nêu một số giải pháp công nghệ khắc phục. Trong các phản biện có nêu khó khăn đặc thù của ta là khai thác bô-xít ở đầu nguồn một số sông lớn như sông Đồng Nai, chưa có tiền lệ trên thế giới. Cá nhân tôi băn khoăn nhất chỗ thiếu hoàn toàn dự toán chi phí cho việc bảo vệ môi trường. Ngay trong nhưng trường hợp đơn giản hơn như Vedan, công nghệ thì đã có, nhưng vi phạm môi trường thì vẫn đỡ được 30% chi phí. Như vậy phần ảnh hưởng đến môi trường là phần chắc, phần bảo vệ môi trường còn phụ thuộc vào nhiều giả thiết, có cái phụ thuộc vào ta (chọn công nghệ), có cái không phụ thuộc vào ta (thời tiết, địa thế), có cái ta chưa tính toán đến (chi phí), vì vậy rất đáng lo.
5) Báo cáo cho biết dự án có ảnh hưởng tốt cho xã hội, cụ thể tạo ra hàng ngàn công ăn việc làm cho nhân dân địa phương. Nếu so sánh với mức đầu tư hàng tỉ đô-la Mỹ, thì có nhiều cách hay hơn, an toàn hơn, hiệu quả kinh tế nhãn tiền hơn, để tạo vài ngàn việc làm. Lưu ý con số công ăn việc làm trong báo cáo tương đương với con số hộ dân bị di chuyển. Còn viễn cảnh xây dựng trung tâm dịch vụ, khách sạn, du lịch và giải trí xung quanh hồ chứa bùn đỏ, theo tôi, ít có sức thuyết phục.
Xin nhắc lại, cũng như phần đông Quí vị, tôi không phải chuyên gia ngành khai thác khoáng sản, nhưng qua nghiên cứu kỹ Báo cáo của Chính phủ và các phản biện của nó, tôi nhận thấy trong Quy hoạch chung khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, phần có hại thì cầm chắc, phần có lợi thì mong manh. Bối cảnh kinh tế thế giới rất không thuận lợi cho khai thác nguyên liệu thô, vậy cái gì thúc đẩy ta triển khai khai thác ào ạt vào thời điểm này.
Khác với các nước Châu Phi thế kỷ 19, đất nước chúng ta là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Quí vị, phần nhiều ở tuổi cha, tuổi chú của tôi, biết rõ hơn tôi: độc lập chủ quyền của ta không phải tự nhiên mà có. Nước ta có một Quốc hội do nhân dân bầu ra, một Chính phủ do Quốc hội chỉ định, một Quân đội phục tùng Chính phủ. Đó là một thành quả cũng không phải tự nhiên mà có.
Tôi kính mong Quí vị bỏ thời gian, nghiên cứu tường tận Báo cáo dự án khai thác bô-xít Tây Nguyên, các phản biện khoa học của nó, lắng nghe ý kiến cử tri và suy nghĩ đến sự tồn vong của đất nước, để rồi xây dựng quan điểm riêng của Quí vị, trình bày nó rõ ràng trong nghị sự của Quốc hội và chịu trách nhiệm về nó trước các cử tri. Tôi rất biết đây là việc khó, nhưng dù Quí vị muốn hay không muốn, nhân dân đã đặt niềm tin lên vai của Quí vị.
GS. TSKH Ngô Bảo Châu
Giáo sư toán học Đại học Paris 11, Pháp,
Thành viên của Institute for Advanced Study, Princeton, Mỹ.
Địa chỉ hiện tại:
School of Mathematics
Institute for Advanced Study
Einstein Drive
Princeton NJ 08540 U.S.A.
VỀ DỰ ÁN KHAI THÁC CHẾ BIẾN BAUXITE Ở DAK NÔNG VÀ LÂM ĐỒNG CỦA TKV
Lê Văn Cương
Viện Chiến lược và Khoa học Công an
Hà Nội, ngày 03 tháng 3 năm 2009
VỀ DỰ ÁN KHAI THÁC CHẾ BIẾN BAUXITE Ở DAK NÔNG VÀ LÂM ĐỒNG CỦA TKV
Sau khi dự các cuộc hội thảo khoa học do VUSTA và Văn phòng Trung ương Đảng tổ chức và khảo sát các cơ sở khai thác, chế biến Bauxite ở Dak Nông, Lâm Đồng, tôi có một số ý kiến (bước đầu) như sau:
1. Dự án khai thác, chế biến Bauxite ở Tây Nguyên do TKV làm chủ đầu tư là không hiệu quả về kinh tế, bởi lẽ:
Trong dự án TKV trình Thủ tướng Chính phủ có mấy vấn đề:
1. Một là, TKV chưa tính đến, hoặc tính chưa hết, chưa đủ các chi phí chắc chắn sẽ phát sinh như: vấn đề vận chuyển quặng, bán thành phẩm, hóa chất phục vụ khai thác, chế biến và xuất khẩu (trên quãng đường khoảng 250km), chi phí sử dụng điện, nước….
2. Hai là, Trung Quốc sẽ chuyển công nghệ lạc hậu sang Việt Nam (Trung Quốc có công nghệ tiên tiến hoặc có thể mua công nghệ tiên tiến của các nước phát triển, nhưng họ không chuyển cho Việt Nam).
3. Ba là, việc TKV chọn Trung Quốc là đối tác duy nhất bao tiêu sản phẩm là hết sức rủi ro, nguy hiểm. Tôi không rõ TKV không biết, hay biết mà cố tình không báo cáo đầyđủ ? Tôi tin là có cả hai.
Còn nhiều vấn đề khác, nhưng với 3 vấn đề trên có thể đưa ra dự báo: chỉ riêng về mặt kinh tế, dự án khai thác, chế biến Bauxite của TKV ở Tây Nguyên chắc chắn không có hiệu quả, thậm chí có thể lổ lớn.
2. Dự án khai thác, chế biến Bauxite ở Tây Nguyên của TKV về lâu dài, sẽ gây ra thảm họa về môi trường, sinh thái.
- Một là, các hồ chứa bùn đỏ ở Dak Nông và Lâm Đồng có thể an toàn trong khoảng 10 - 15 năm tới, ngoài 20 năm không ai có thể yên tâm. Mùa mưa Tây Nguyên kéo dài nhiều tháng; có những trận mưa lớn kéo dài tới 5 -7 ngày, thậm chí đến 10 ngàỵ. Trong điều kiện đó các hồ chứa bùn đỏ trên cao nguyên rất có thể xảy ra sự cố (tràn hồ, lún sụt, vỡ đập, rạn nứt đáy hồ…).
- Hai là, nơi khai thác, chế biến Bauxite ở Dak Nông và Lâm Đồng nằm ở thượng nguồn sông Đồng Nai và sông Sê-rê-Pôk (chảy sang đất Campuchia và sông Mê Kông). Không ai có thể bảo đảm là khai thác, chế biến Bauxite sẽ không làm ô nhiễm (nhiễm bẩn, nhiễmđộc) nguồn nước của hai con sông này. Có khoảng 15 triệu người sử dụng nước của hệ thống sông Đồng Nai (nước sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ, sản xuất…). Tập đoàn TKV hoàn toàn không có khả năng (về tài chánh, công nghệ…) khắc phục, xử lý ô nhiểm đốivới sông Đồng Nai và sông Sê-rê-Pôk.
Chi phí để khắc phục thảm họa môi trường sẽ lên đến hàng chục tỷđôla, sẽ lớn hơn hàng chục lần lợi ích thu được từ khai thác, chế biến Bauxite.
2. Dự án khai thác, chế biến Bauxiteở Tây Nguyên sẽ xâm phạm nghiêm trọng an ninh quốc gia.
Các đe dọa đối với an ninh quốc gia không diễn ra nhanh chóng và dễ nhận thấy như hiệu quả kinh tế và tai biến môi trường. An ninh quốc gia bị suy yếu nghiêm trọng do:
- Một là, dự án không có hiệu quả về kinh tế, thậm chí thua lỗ, từđó tác động lớn đến chính trị - xã hội của đất nước, dân mất lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước.
- Hai là, thảm họa về môi trường sinh thái sẽ tác động to lớn đến ổn định chính trị- xã hội. Hàng chục triệu người sẽ phải chịu hậu quả nặng nề về môi trường sống mà không thể khắc phục đư ợc trong thời gian ngắn.
- Ba là, Trung Quốc vào Tây Nguyên là họđã có điều kiện khống chế đối với cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Hiện nay Trung Quốc đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri - sát biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm, và Trung Quốc đã làm chủ các dự án kinh tế lớn ở tỉnh A-Ta-Pu - tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam và Campuchia (tại ngã baĐông Dương).Đây là hậu họa khôn lườngđối với an ninh quốc gia.
Không rõ những người quyết định cho Trung Quốc vào Tây Nguyên có biết điều này không ?
4. Kiến nghị
4.1.Đề nghị Thủ tướng Chính phủ trực tiếp nghe ý kiến của các nhà khoa học về dự án khai thác, chế biến Bauxite ở Tây Nguyên.
4.2. Cho làm thử với quy mô nhỏ (khoảng 300 ngày tấn alunune/năm), sau 5-10 năm sẽ quyết định quy mô lớn.
NGƯỜI BÁO CÁO
Thiếu tướng, PGS TS Lê Văn Cương
http://www.scribd.com/doc/14603633/LeVanCuongBoxit
Viện Chiến lược và Khoa học Công an
Hà Nội, ngày 03 tháng 3 năm 2009
VỀ DỰ ÁN KHAI THÁC CHẾ BIẾN BAUXITE Ở DAK NÔNG VÀ LÂM ĐỒNG CỦA TKV
Sau khi dự các cuộc hội thảo khoa học do VUSTA và Văn phòng Trung ương Đảng tổ chức và khảo sát các cơ sở khai thác, chế biến Bauxite ở Dak Nông, Lâm Đồng, tôi có một số ý kiến (bước đầu) như sau:
1. Dự án khai thác, chế biến Bauxite ở Tây Nguyên do TKV làm chủ đầu tư là không hiệu quả về kinh tế, bởi lẽ:
Trong dự án TKV trình Thủ tướng Chính phủ có mấy vấn đề:
1. Một là, TKV chưa tính đến, hoặc tính chưa hết, chưa đủ các chi phí chắc chắn sẽ phát sinh như: vấn đề vận chuyển quặng, bán thành phẩm, hóa chất phục vụ khai thác, chế biến và xuất khẩu (trên quãng đường khoảng 250km), chi phí sử dụng điện, nước….
2. Hai là, Trung Quốc sẽ chuyển công nghệ lạc hậu sang Việt Nam (Trung Quốc có công nghệ tiên tiến hoặc có thể mua công nghệ tiên tiến của các nước phát triển, nhưng họ không chuyển cho Việt Nam).
3. Ba là, việc TKV chọn Trung Quốc là đối tác duy nhất bao tiêu sản phẩm là hết sức rủi ro, nguy hiểm. Tôi không rõ TKV không biết, hay biết mà cố tình không báo cáo đầyđủ ? Tôi tin là có cả hai.
Còn nhiều vấn đề khác, nhưng với 3 vấn đề trên có thể đưa ra dự báo: chỉ riêng về mặt kinh tế, dự án khai thác, chế biến Bauxite của TKV ở Tây Nguyên chắc chắn không có hiệu quả, thậm chí có thể lổ lớn.
2. Dự án khai thác, chế biến Bauxite ở Tây Nguyên của TKV về lâu dài, sẽ gây ra thảm họa về môi trường, sinh thái.
- Một là, các hồ chứa bùn đỏ ở Dak Nông và Lâm Đồng có thể an toàn trong khoảng 10 - 15 năm tới, ngoài 20 năm không ai có thể yên tâm. Mùa mưa Tây Nguyên kéo dài nhiều tháng; có những trận mưa lớn kéo dài tới 5 -7 ngày, thậm chí đến 10 ngàỵ. Trong điều kiện đó các hồ chứa bùn đỏ trên cao nguyên rất có thể xảy ra sự cố (tràn hồ, lún sụt, vỡ đập, rạn nứt đáy hồ…).
- Hai là, nơi khai thác, chế biến Bauxite ở Dak Nông và Lâm Đồng nằm ở thượng nguồn sông Đồng Nai và sông Sê-rê-Pôk (chảy sang đất Campuchia và sông Mê Kông). Không ai có thể bảo đảm là khai thác, chế biến Bauxite sẽ không làm ô nhiễm (nhiễm bẩn, nhiễmđộc) nguồn nước của hai con sông này. Có khoảng 15 triệu người sử dụng nước của hệ thống sông Đồng Nai (nước sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ, sản xuất…). Tập đoàn TKV hoàn toàn không có khả năng (về tài chánh, công nghệ…) khắc phục, xử lý ô nhiểm đốivới sông Đồng Nai và sông Sê-rê-Pôk.
Chi phí để khắc phục thảm họa môi trường sẽ lên đến hàng chục tỷđôla, sẽ lớn hơn hàng chục lần lợi ích thu được từ khai thác, chế biến Bauxite.
2. Dự án khai thác, chế biến Bauxiteở Tây Nguyên sẽ xâm phạm nghiêm trọng an ninh quốc gia.
Các đe dọa đối với an ninh quốc gia không diễn ra nhanh chóng và dễ nhận thấy như hiệu quả kinh tế và tai biến môi trường. An ninh quốc gia bị suy yếu nghiêm trọng do:
- Một là, dự án không có hiệu quả về kinh tế, thậm chí thua lỗ, từđó tác động lớn đến chính trị - xã hội của đất nước, dân mất lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước.
- Hai là, thảm họa về môi trường sinh thái sẽ tác động to lớn đến ổn định chính trị- xã hội. Hàng chục triệu người sẽ phải chịu hậu quả nặng nề về môi trường sống mà không thể khắc phục đư ợc trong thời gian ngắn.
- Ba là, Trung Quốc vào Tây Nguyên là họđã có điều kiện khống chế đối với cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Hiện nay Trung Quốc đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri - sát biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm, và Trung Quốc đã làm chủ các dự án kinh tế lớn ở tỉnh A-Ta-Pu - tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam và Campuchia (tại ngã baĐông Dương).Đây là hậu họa khôn lườngđối với an ninh quốc gia.
Không rõ những người quyết định cho Trung Quốc vào Tây Nguyên có biết điều này không ?
4. Kiến nghị
4.1.Đề nghị Thủ tướng Chính phủ trực tiếp nghe ý kiến của các nhà khoa học về dự án khai thác, chế biến Bauxite ở Tây Nguyên.
4.2. Cho làm thử với quy mô nhỏ (khoảng 300 ngày tấn alunune/năm), sau 5-10 năm sẽ quyết định quy mô lớn.
NGƯỜI BÁO CÁO
Thiếu tướng, PGS TS Lê Văn Cương
http://www.scribd.com/doc/14603633/LeVanCuongBoxit
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)