Tường Thuật Trận Hải Chiến Lịch Sử Hoàng Sa
Hà Văn Ngạc , C/N 2012/10
Lời Mở Đầu
Ðại
Tá Hà Văn Ngạc , Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH , người
chỉ huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 , đã đột ngột
từ trần tại Dallas , Texas vào ngày 12/02/1999 , hưởng thọ 64 tuổi .
Trong suốt 10 năm trước đó , chúng tôi ( Chủ Biên Nguyệt San Đoàn Kết )
liên lạc rất thường xuyên với Ðại Tá Ngạc để yêu cầu ông viết về trận
hải chiến Hoàng Sa , nhưng vì nhiều lý do , ông vẫn do dự . Mãi tới cuối
năm 1998 , vào dịp Lễ Giáng Sinh , ông mới gửi tới Toà Soạn Nguyệt San
Ðoàn Kết bài « Tường Thuật Về Trận Hải Chiến Hoàng Sa » do chính ông
viết nhân dịp kỷ niệm 25 năm trận đánh lịch sử này . Ngoài ra , ông cũng
đã cho phép chúng tôi phỏng vấn và cung cấp nhiều hình ảnh hiếm có cùng
những chi tiết qúi báu về vị trí của các chiến hạm tham chiến để Toà
Soạn có thể sửa lại các phóng đồ về trận hải chiến cho thêm chính xác .
Ðúng 25 năm trước , vào mùa Xuân Giáp Dần năm
1974 , Hải Ðội Trưởng Hà Văn Ngạc đã anh dũng chỉ huy các chiến hạm Hải
Quân VNCH chận đánh quân xâm lăng Trung Cộng tại Hoàng Sa . Giờ đây ,
hương linh chiến hữu Hà Văn Ngạc vừa trở lại với Hoàng Sa để tiếp tục
bảo vệ chủ quyền chính đáng của Tổ Quốc Việt Nam tại Biển Ðông .
Trần Ðỗ Cẩm , Chủ Nhiệm Nguyệt San Ðoàn
Kết , Austin Texas
* * *
Ðôi lời trước khi viết
Ðã 25 năm kể từ ngày tôi tham dự trận hải chiến
Hoàng Sa , tôi chưa từng trình bầy hay viết mô tả lại về trận đánh này ,
ngay cả có nhiều lần tôi đã thất hứa với các bậc tiên sinh yêu cầu tôi
thuật lại chi tiết của cuộc đụng độ . Dù thắng hay bại , chỉ có một điều
duy nhứt không thể chối cãi được là các chiến hữu các cấp của Hải Quân
Việt Nam Cộng Hoà trong trận hải chiến đã anh dũng chiến đấu bằng phương
tiện và kinh nghiệm có trong tay để chống lại một kẻ xâm lăng truyền
kiếp của dân tộc hầu bảo vệ lãnh thổ của Tổ Quốc . Trước một thù địch có
sức mạnh gấp bội , dù cuộc chiến có hạn chế hay kéo dài hoặc mở rộng ,
phần cuối là chúng ta vẫn phải tạm lùi bước trước các cuộc cường tập của
đối phương để tìm kiếm một cơ hội thuận tiện khác hầu khôi phục lại phần
đất đã bị cưỡng chiếm .
Hôm nay nhân ngày Tết Kỷ Mão , tôi viết những giòng này để tưởng niệm
anh linh các liệt sĩ đã hy sinh khi cùng tôi chiến đấu chống kẻ xâm lăng
trên các mảnh đất xa vời của Quốc Tổ , một số đã vĩnh viễn nằm lại trong
lòng biển Hoàng Sa như để thêm một chứng tích lịch sử của chủ quyền quốc
gia , một số khác đã bỏ mình trên biển cả khi tìm đường thoát khỏi sự
tàn bạo của người phương Bắc .
Có nhiều chiến hữu Hải Quân đã từng hăng say
viết lại một trang sử oai hùng của Hải Quân và toàn Quân Lực Việt Nam
của nền Ðệ Nhị Cộng Hoà , nhưng đã thiếu sót nhiều chi tiết chính xác mà
vào những năm trước 1975 chưa được phép phổ biến , và cũng vì phải lưu
lạc khắp thế giới tự do nên các chiến hữu đó đã không thể liên lạc để
tham khảo cùng tôi .
Nhiều chi tiết về giờ giấc và về vị trí bạn và
địch , cũng như tên họ của các cấp có liên hệ tới biến cố , vì không có
tài liệu truy lục , nên chỉ có thể viết vào khoảng gần đúng nhất . Tôi
chỉ tường thuật trung thực những chi tiết theo khía cạnh của một người
chỉ huy chiến thuật được biết và cũng mong mỏi các chiến hữu nào còn có
thể nhớ chắc chắn các chi tiết quan trọng khác , tôi sẽ sẵn sàng tiếp
nhận qua toà soạn này , để sửa lại tài liệu này cho đúng .
Đại Tá Hà Văn Ngạc
* * *
« Tân Xuân Giáp Dần Hoàng Sa chiến
Nam Ngư Hải Ngoại huyết lưu hồng »
Hai câu thơ với lối hành văn vận theo sấm Trạng
Trình đã được truyền khẩu rất nhanh khi Hải đội Ðặc nhiệm Hoàng Sa trở
về tới Ðà Nẵng vào sáng sớm ngày 20/04/1974 . Và câu thơ này do chính
Hải Quân Ðại Tá Nguyễn Viết Tân ( thủ khoa Khoá 5 của tôi ) lúc đó đang
giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải , đọc cho tôi nghe . Từ
ngày đó tới nay đã đúng 25 năm , và do sự khuyến khích của các bậc
thượng trưởng của Hải Quân Việt Nam , những chi tiết về diễn tiến chưa
tùng tiết lộ của trận hải chiến cần được ghi lại để làm chứng liệu lịch
sử .
Sau trận hải chiến , những ưu và khuyết điểm về
chiến thuật và chiến lược của Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà đến nay nếu nêu
ra thì sẽ không còn một giá trị thực tiễn nào để có thể làm những bài
học cho những biến cố kế tiếp . Vì vậy một vài điều nếu có nêu ra tại
đây thì chỉ để ghi lại tình trạng và khả năng khi Hải Quân Việt Nam Cộng
Hoà khi đã phải đương đầu với Trung Cộng , là một quốc gia vào thời điểm
đó , đã sẵn có một lực lượng hùng hậu về hải lục không quân gấp bội của
Việt Nam Cộng Hoà .
Một điểm hãnh diện cho Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà
lúc bấy giờ là đã không những phải sát cánh với lực lượng bạn chống lại
kẻ nội thù là Cộng Sản miền bắc trong nội địa , lại vừa phải bảo vệ
những hải đảo xa xôi , mà lại còn phải chiến đấu chống kẻ xâm lăng , đã
từng biết bao lần dầy xéo đất nước trong suốt lịch sử lập quốc và dành
quyền độc lập của xứ sở .
So sánh với các cuộc hành quân ngoại biên vào các
năm 1970-1971 của Quân Lực VNCH sang đất Kampuchia va Hạ Lào , thì quân
lực ta chỉ chiến đẵu ngang ngửa vơi Cộng Sản Việt Nam ẩn náu trên đất
nước láng giềng mà thôi . Phải thành khẩn mà nhận rằng Hải Quân Việt Nam
Cộng Hoà ngoài nội thù còn phải chống ngoại xâm mà đã rất khó tiên liệu
để chuẩn bị một cuộc chiến chống lại một lực lượng Hải Quân Trung Cộng
tương đối dồi đào hơn cả chúng ta về phẩm cũng như lượng . Hải Quân Việt
Nam ta đã có những gánh nặng về hành quân để yểm trợ lực lượng bạn và
hành quân ngăn chận các vụ chuyển quân lén lút của Việt Cộng qua biên
giới Miên Việt trong vùng sông ngòi cũng như các vụ tiếp tế quân dụng
của chúng vào vùng duyên hải .
Trước khi đi vào chi tiết của trận hải chiến lịch
sử này , chúng ta thử nhắc sơ lược lại cấu trúc nhân su của thượng tầng
chỉ huy và của các đơn vị tham chiến của Hải Quân vào lúc biến cố :
- Tư Lệnh Hải Quân : Ðề Ðốc Trần Văn Chơn
- Tư Lệnh Phó Hải Quân : Phó Ðề Ðốc Lâm Ngươn Tánh
- Tham mưu Trưởng Hải Quân : Phó Ðề Ðốc Diệp Quang Thuỷ
- Tư Lệnh Hạm Đội : HQ Ðại Tá Nguyễn Xuân Sơn
- Tư Lệnh HQ Vùng 1 Duyên Hải : Phó Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại
- Chỉ Huy Trưởng Hải đội tuần dương : HQ Ðại Tá Hà Văn Ngạc , ( Hải đội
3 ) và là sĩ quan chỉ huy chiến thuật trận hải chiến .
- Hạm Trưởng Khu Trục Hạm HQ4 : HQ Trung Tá Vũ Hữu San
- Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm HQ5 : HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh
- Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm HQ16 : HQ Trung Tá Lê Văn Thự
- Trưởng Toán Hải Kích đổ bộ : HQ Ðại Uý Nguyễn Minh Cảnh .
- Hạm Trưởng Hộ tống hạm HQ10 : HQ Thiếu Tá Nguỵ Văn Thà tử chiến trong
trận 01/1974 ( truy thăng HQ Trung Tá )
Lý do tôi đã có mặt tại Hoàng Sa
Rất nhiều chiến hữu trong Hải Quân đã không rõ
nguyên cớ nào mà tôi đã có mặt để đích thân chỉ huy tại chỗ trận hải
chiến Hoàng Sa . Sự có mặt của tôi bắt nguồn từ khi tôi được Hội đồng Ðô
Đốc chỉ định tôi tăng phái cho Vùng I Duyên Hải khoảng từ cuối năm 1972
đầu 1973 . Lý do tăng phái của tôi đến Vùng I Duyên Hải tôi không được
biết trước cho đến khi tôi tới Quân Khu 1 , tôi mới được biết nhiệm vụ
chính của tôi là chuẩn bị một trận thư hùng giữa Hải Quân VNCH và Hải
Quân Bắc Việt mà lúc đó , tin tình báo xác nhận là Cộng Sản đã được viện
trợ các Cao Tốc Đĩnh loại Komar của Nga sô trang bị hoả tiễn hải hải
( surface to surface ) . Vào thời gian đó Hải Quân VNCH chỉ có khả năng
chống đỡ thụ động loại vũ khí này . Cuộc hải chiến tiên liệu có thể xẩy
ra khi lực lượng Hải Quân Cộng Sản tràn xuống để hỗ trợ cho quân bộ của
chúng khi chúng muốn tái diễn cuộc cường tập xuất phát từ phía Bắc sông
Bến Hải như vào ngày cuối tháng 03/1972 để khởi phát các cuộc tấn công
suốt mùa Hè Đỏ Lửa 1972 .
Tôi lưu lại Vùng I Duyên Hải chừng hai tuần lễ hầu
nghiên cứu để thiết kế . Kế hoạch chính của cuộc hải chiến này là xử
dụng nhiều chiến hạm và chiến đỉnh ( WPB và PCF ) để giảm bớt sự thiệt
hại bằng cách trải nhiều mục tiêu trên mặt biển cùng một lúc . Song song
với việc này là các chiến hạm và chiến đĩnh phải xử dụng đạn chiếu sáng
và hoả pháo cầm tay như là một cách chống hoả tiễn thụ động . Ngoài ra
Hải Quân cũng cần đặt ra sự yểm trợ của pháo binh của Quân Đoàn I để tác
xạ ngăn chặn và tiêu diệt lực lượng Hải Quân Cộng Sản tại phía Bắc Cửa
Việt trước khi họ tràn xuống phía Nam để đủ tầm phóng hoả tiễn .
Sau khi đã thuyết trình tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân
Vùng I Duyên Hải cùng các Chỉ Huy Trưởng các đơn vị duyên phòng và duyên
đoàn , Tư Lệnh HQ Vùng I Duyên Hải chấp thuận kế hoạch và đưa kế hoạch
lên thuyết trình tai Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu I . Buổi thuyết
trình tại BTL / Quân Đoàn I do đích thân Trung Tướng Ngô quang Trưởng
chủ toạ , ngoài Tư Lệnh HQ Vùng I Duyên Hải còn có Ðại Tá Hà Mai
ViệtTrưởng Phòng 3 Quân Đoàn , Ðại Tá Khiêu hữu Diêu , Ðại Tá Nguyễn Văn
Chung Chỉ Huy Trưởng pháo binh Quân Đoàn và một số rất ít các sĩ quan
phụ tá . Nhu cầu yểm trợ pháo binh cho cuộc hải chiến được chấp thuận
ngay và Chỉ Huy Trưởng pháo binh Quân Đoàn hứa sẽ phối trí pháo binh ,
đặc biệt là pháo binh 175 ly để thoả mãn kế hoạch của Hải Quân , khi
được yêu cầu .
Kể từ khi được chỉ định tăng phái , tôi thường có
mặt tai Vùng I Duyên Hải mỗi tháng chừng hai tuần tuỳ theo công việc của
tôi tại Hải đội , nhưng chưa lần nào Bộ Tư Lệnh HQ , Bộ Tư Lệnh Hạm Đội
hoặc Vùng I Duyên Hải chỉ thị tôi phải có mặt trong vùng . Khi có mặt
tại vùng tôi thường tìm hiểu tình hình tổng quát tại Quân Khu I cũng như
đi hoặc tháp tùng Tư Lệnh HQ Vùng I Duyên Hải thăm viếng các đơn vị lục
quân bạn cấp sư đoàn , lữ đoàn hay trung đoàn .
Trở lại trận hải chiến Hoàng Sa , vào khoảng ngày
11/01/1974 , chỉ khoảng vài ngày sau khi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Kissinger
rời Trung Cộng , thì đột nhiên Ngoại Trưởng Trung Cộng lại một lần nữa
tuyên bố về chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng và Trường Sa . Tôi
rất lưu ý tin này vì tôi đã chỉ huy công cuộc đặt quân trú phòng đầu
tiên trên đảo Nam Yết vùng Trường Sa vào cuối mùa hè 1973 . Vài ngày
sau , vì Ngoại Trưởng VNCH Vương Văn Bắc còn bận công cán ngoại quốc ,
thì phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao VNCH bác bỏ luận cứ của Trung Cộng và
tái xác nhận một lần nữa chủ quyền của VNCH trên các quần đảo đó .
Ngày 16/01/1974 , tôi từ Sài Gòn đi Vũng Tầu để chủ
toạ lễ trao quyền chỉ huy Tuần Dương Hạm HQ5 Trần bình Trọng đang neo
tại chỗ , cho tân Hạm Trưởng là Hải Quân Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh ( tôi
không còn nhớ tên cựu Hạm Trưởng ) . Khi trở về Sài Gòn , lúc theo dõi
bản tin tức hàng ngày của đài truyền hình thì thấy Ngoại Trưởng Vương
Văn Bắc hùng hồn và nghiêm trọng khi tuyên bố chủ quyền của VNCH trên 2
quần đảo Hoàng và Trường Sa . Tôi thấy có chuyện bất ổn có thể xẩy ra
tại Vùng I Duyên Hải nhất là Việt Cộng có lẽ được Trung Cộng hỗ trợ tạo
ra tình thế rắc rối ngoài hải đảo để thu hút lực lượng của Hải Quân Việt
Nam , và đương nhiên Cộng Sản sẽ lợi dụng để tràn xuống dưới vĩ tuyến 17
như đã dự liệu .
Nên sáng sớm ngày 17 , không kịp thông báo đến Tư
Lệnh Hạm Đội ; tôi lên phi trưởng Tân Sơn Nhứt và đến thẳng ngay Trạm
hàng không quân sự . Tôi gặp ngay một vị Thượng Sĩ Không Quân trưởng
trạm và nói là tôi cần đi gấp ra Ðà Nẵng . Vị Thượng Sĩ trình với tôi là
danh sách hành khách đã đầy đủ cho chuyến bay và giới thiệu tôi gặp vị
Trung Uý Phi Công Trưởng phi cơ C130 . Sau khi trình bầy lý do khẩn cấp
đi Ðà Nẵng của tôi , vị Phi Công Trưởng trang trọng mời tôi lên phi cơ
ngồi vào ghế phụ trong phòng phi công .
Ðến Ðà Nẵng khoảng 09 G sáng , tôi mới kêu điện
thoại cho HQ Ðại Tá Nguyễn Hữu Xuân , Tư Lệnh Phó Vùng cho xe đón tôi
tại phi trường . Ðến BTL/HQ Vùng I Duyên Hải tôi mới được biết chi tiết
những gì đang xẩy ra tại Hoàng Sa , và được biết thêm là chiếc Tuần
Dương Hạm HQ5 , mà tôi vừa chủ toạ trao quyền chỉ huy ngày hôm qua tại
Vũng Tàu sẽ có mặt tại quân cảng vào buổi chiều tối cùng với biệt đội
hải kích .
Tư Lệnh HQ Vùng I Duyên Hải cũng cho tôi hay và giơ
một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ bút của Tổng Thống vừa tới thăm bản
doanh trước đây , nhưng tôi không hỏi về chi tiết cũng như xin xem thủ
bút vì tôi nghĩ đó là chỉ thị riêng tư giữa Tổng Thống và một vị Tướng
Lãnh . Vị Tư Lệnh này còn cho tôi hai chọn lựa : một là chỉ huy các
chiến hạm ngay tại Bộ Tư Lệnh Vùng , hai là đích thân trên chiến hạm .
Tôi đáp trình ngay là : Tôi sẽ đi theo các đơn vị của tôi . Từ ngày được
thuyên chuyển về Hạm Đội , không như các vị tiền nhiệm , tôi thường xa
Bộ chỉ huy để đi theo các chiến hạm trong công tác tuần dương . Mỗi
chuyến công tác , sự hiện diện của tôi đã mang lại cho nhân viên chiến
hạm niềm phấn khởi sau nhiều ngày phải xa căn cứ . Tôi thường lưu ý các
vị Hạm Trưởng đến việc huấn huyện nội bộ hoặc thao dượt chiến thuật với
chiến hạm khác khi được phép .
Ðến khoảng buổi chiều thì Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải
còn hỏi tôi có cần thêm gì , tôi trình xin thêm một chiến hạm nữa vì cần
hai chiếc khi di chuyển trong trường hợp bị tấn công trên hải trình ,
chứ không phải vì số lượng chiến hạm Trung Cộng đang có mặt tại Hoàng
Sa . Chiếc Hộ tống hạm ( PCE ) HQ10 Nhựt Tảo đựơc chỉ định xung vào Hải
đoản đặc nhiệm , với lý do chính là chiếc Hộ tống hạm này đang tuần
dương ngay khu vực cửa khẩu Ðà Nẵng nên giảm bớt thời gian di chuyển ,
chiến hạm chỉ có một máy chánh khiển dụng mà thôi . Ngoài ra vị Tư Lệnh
HQ vùng còn tăng phái cho tôi HQ Thiếu Tá Toàn ( Ghi chú của Trần Ðỗ
Cẩm : HQ Thiếu Tá Nguyễn Chí Toàn , Khoá 11 SQHQ / Nha Trang ) , mà tôi
chưa biết khả năng nên trong suốt thời gian tăng phái tôi chỉ trao nhiệm
vụ giữ liên lạc với các Bộ Tư Lệnh cho vị sĩ quan này . Tôi dùng cơm
chiều gia đình cùng Tư Lệnh HQ Vùng tại tư thất trong khi chờ đợi Tuần
Dương Hạm HQ5 tới . Sau bữa ăn , Tư Lệnh HQ Vùng đích thân đi bộ tiễn
chân tôi ra cầu quân cảng . Sau trận chiến , vị Ðô Đốc này có thổ lộ
cùng tôi là ông đã tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi . Như
vậy là trận hải chiến đã dự liệu là sẽ có thể xẩy ra , và chắc vị Ðô Đốc
đã mật trình về Tư Lệnh Hải Quân thường có mặt tại Bộ Tư Lệnh .
Tuần Dương Hạm HQ5 rời bến khoảng 09 : 00 tối và
tôi trao nhiệm vụ đi tới Hoàng Sa cho Hạm Trưởng HQ5 là vị Hạm Trưởng
thâm niên hơn ( Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm : HQ5 và HQ10 cùng đi Hoàng Sa ,
Hạm Trưởng HQ5 là Trung Tá Quỳnh thuộc khoá 11 SQHQ Nha Trang , thâm
niên hơn Hạm Trưởng HQ10 là Thiếu Tá Thà thuộc khoá 12 SQHQ Nha Trang )
. Sự hiện diện của tôi trên chiến hạm này đã làm tân Hạm Trưởng , vừa
nhậm chức 2 ngày trước , được vững tâm hơn vì chắc tân Hạm Trưởng chưa
nắm vững được tình trạng chiến hạm cũng như nhân viên thuộc hạ . Các
chiến hạm đều giữ im lặng vô tuyến ngoại trừ các báo cáo định kỳ về vị
trí .
Những diễn tiến ngày hôm trước trận hải chiến
Khoảng 08 hay 09 giờ sáng ngày 18 , hai chiến hạm
HQ5 và HQ10 đã đến gần Hoàng Sa , và trong tầm âm thoại bằng máy VRC46
( hậu thân của máy PRC25 nhưng với công xuất mạnh hơn ) để liên lạc bằng
bạch văn , vì tầm hữu hiệu của máy chỉ ở trong vùng Hoàng Sa mà thôi ,
tôi nói chuyện với Hạm Trưởng HQ4 HQ Trung Tá Vũ hữu San , lúc đó đang
là sĩ quan thâm niên hiện diện , để được am tường thêm tình hình cũng
như thông báo về sự hiện diện của tôi , vừa là Chỉ Huy Trưởng Hải đội
vừa là để thay thế quyền chỉ huy mọi hoạt dộng , theo đúng thủ tục ghi
trong Hải quy . Sau khi được trình bầy chi tiết các diễn tiến , tôi có
lời khen ngợi Hạm Trưởng này và chia sẻ những khó khăn mà vị này đã trải
qua trong những ngày trước khi tôi có mặt tại vùng .
Vào khoảng xế trưa , thì cả 4 chiến hạm ( Ghi chú
của Trần Ðỗ Cẩm : HQ4 , HQ5 , HQ10 và HQ16 ) đều tập trung trong vùng
lòng chảo của quần đảo Hoàng Sa và Hải Đoàn Đặc Nhiệm được thành hình .
Nhóm chiến binh thuộc Tuần Dương Hạm HQ16 và Khu Trục Hạm HQ4 đã đổ bộ
và trương quốc kỳ VNCH trên các đảo Cam Tuyền ( Robert ) , Vĩnh Lạc
( Money ) và Duy Mộng ( Drummond ) từ mấy ngày qua vẫn được giữ nguyên
vi trí phòng thủ để giữ đảo . Sau khi quan sát các chiến hạm Trung Cộng
lởn vởn phía Bắc đảo Quang Hoà ( Duncan ) , tôi quyết định ngay là Hải
Đoàn sẽ phô trương lực lượng bằng một cuộc thao diễn chiến thuật tập đội
để tiến về phía đảo Quang Hoà với hy vọng là có thể đổ bộ hải kích như
các chiến hạm ta đã làm trước đây . Lúc này trời quang đãng , gió nhẹ và
biển êm . Tất cả chiến hạm đều phải vào nhiệm sở tác chiến , nhưng các
dàn hải pháo và vủ khí đại liên phải ở trong thế thao diễn . Khởi hành
từ nam đảo Hoàng Sa để tiến về đảo Quang Hoà , 4 chiến hạm vào đội hình
hàng dọc , dẫn đầu là Khu Trục Hạm HQ4 , theo sau là Tuần Dương Hạm HQ5
làm chuẩn hạm đã có trương hiệu kỳ hải đội , thứ ba là Tuần Dương Hạm
HQ16 và sau cùng là Hộ tống hạm HQ10 , tốc độ chừng 6 gút , khoảng cách
giữa các chiến hạm là hai lần khoảng cách tiêu chuẩn ( tức 1000 yard ) ,
phương tiện truyền tin là kỳ hiệu và quang hiệu , và âm thoại bằng VRC46
hoặc PRC25 chỉ xử dụng để tránh hiểu lầm ám hiệu vận chuyển chiến thuật
mà thôi .
Chừng nửa giờ sau khi Hải Đoàn vận chuyển vào đội
hình hướng về phía đảo Quang Hoà thì hai chiến hạm Trung Cộng loại
Kronstad mang số hiệu 271 và 274 bắt đầu phản ứng bằng cách vận chuyển
chặn trước hướng đi của Hải Đoàn , nhưng Hải Đoàn vẫn giữ nguyên tốc
độ , trong khi đó thì hai chiếc chiến hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và
396 ( Ghi chú của Trần Ðỗ Cẩm : đây là hai trục lôi hạm tức là tầu vớt
mìn loại T43 ) cùng 2 chiếc ngư thuyền nguỵ trang 402 và 407 ( Ghi chú
của Trần Ðỗ Cẩm : ngư thuyền số 402 mang tên Nam Ngư ) của họ vẫn nằm
nguyên vị trí sát bờ bắc đảo Quang Hoà . Tôi đã không chú tâm đến 2
chiếc chiến hạm nhỏ của địch vì cho rằng , hai chiếc này chỉ là loại phụ
mà thôi ( sau này , khi sưu tầm tài liệu về trận hải chiến Hoàng Sa , HQ
Thiếu Tá Trần Ðỗ Cẩm truy ra theo số hiệu là loại trục lôi hạm và chắc
trang bị vũ khí nhẹ hơn ) còn hai chiếc tầu tiếp tế nguỵ trang như ngư
thuyền thì không đáng kể . Hành động chận đường tiến của chiến hạm ta đã
từng được họ xử dụng trong mấy ngày trước đây khi các chiến hạm ta đổ
quân lên các đảo Cam tuyền , Vĩnh lạc và Duy mộng để xua quân của Trung
Cộng rời đảo . Chiếc Kronstad 271 bắt đầu xin liên lạc bằng quang hiệu
để xin liên lạc , Tuần Dương Hạm HQ5 trả lời thuận và nhận công điện
bằng Anh ngữ :
- « These islands belong to the People Republic of
China ( phần này tôi nhớ không chắc chắn ) since Ming dynasty STOP
Nobody can deny » ( Phần này tôi nhớ rất kỹ vì tôi có phụ nhận quang
hiệu ) .
Tôi cho gởi ngay một công điện khái quát như sau :
- « Please leave our territorial water immediately » .
Công điện của chiến hạm Trung Cộng được lập đi lập
lại ít nhất 3 lần sau khi họ nhận được công điện của Hải Đoàn Đặc Nhiệm
VNCH , và chiến hạm ta cũng tiếp tục chuyển lại công điện yêu cầu họ rời
khỏi lãnh hải của VNCH .
Vì 2 chiến hạm Kronstad Trung Cộng cố tình chặn
đường tiến của Hải Đoàn Đặc Nhiệm với tốc độ khá cao , nếu Hải Đoàn tiếp
tục tiến thêm thì rất có thể gây ra vụ đụng tầu , tôi đưa Hải Đoàn trở
về phía Nam đảo Hoàng Sa và vẫn giữ tình trạng ứng trực cũng như theo
dõi các chiến hạm Trung Cộng , họ cũng lại tiếp tục giữ vị trí như cũ
tại phía Bắc và Tây Bắc đảo Quang Hoà . Sự xuất hiện thêm 2 chiến hạm
của Hải Quân Việt Nam vào trong vùng chắc chắn đã được chiếc Kronstad
271 của Trung Cộng , được coi như chiến hạm chỉ huy , báo cáo về Tổng
hành dinh của họ , và việc tăng viện có thể được coi như đã được chuẩn
bị .
Với hành động quyết liệt ngăn chặn ta không tiến
được đến đảo Quang Hoà , tôi cho rằng họ muốn cố thủ đảo này . Việc đổ
bộ quân để xua đuổi họ ra khỏi đảo , lúc đó tôi hy vọng , chỉ có thể
phải thực hiện bất thần để tránh hành động ngăn chặn của họ và có lực
lượng hải kích với trang phục người nhái , may ra họ có thể phải nhượng
bộ , như Tuần Dương Hạm HQ16 và Khu Trục Hạm HQ4 đã thành công trong mấy
ngày trước đó . Nếu họ tấn công thay vì nhượng bộ , Hải Đoàn Đặc Nhiệm
buộc phải sẵn sàng chống trả .
Vào khoảng 20 giờ tối , tôi yêu cầu Tuần Dương Hạm
HQ16 chuyển phái đoàn công binh của Quân Đoàn I sang Tuần Dương Hạm HQ 5
bằng xuồng . Phái đoàn công binh Quân Đoàn I do Thiếu Tá Hồng hướng dẫn
đã vào gặp tôi tại phòng ăn Sĩ quan có theo sau Ông Kosh thuộc cơ quan
DAO Hoa Kỳ tại Ðà Nẵng . Tôi cho cả hai hay là tình hình sẽ khó tránh
khỏi một cuộc đụng độ nên tôi không muốn các nhân viên không Hải Quân có
mặt trên chiến hạm và tôi sẽ đưa họ lên đảo . Tôi cũng yêu cầu Tuần
Dương Hạm HQ5 cấp cho tất cả một ít lưong khô . Riêng ông Kosh thì tôi
yêu cầu Hạm Trưởng HQ5 đưa cho ông 1 bịch thuốc lá 10 bao Capstan . Tôi
tiễn chân tất cả phái đoàn xuống xuồng và vẫy tay chào họ khi xuồng bắt
đầu hướng về đảo Hoàng Sa . Kể từ giờ phút đó tới nay tôi không có dịp
nào gặp lại ông Kosh để thăm hỏi ông và yêu cầu ông cho trả lại Tuần
Dương Hạm HQ5 bịch thuốc lá Capstan vì thuốc lá này thuộc quân tiếp vụ
của chiến hạm xuất ra ứng trước . Riêng Thiếu Tá Hồng thì tôi đã có dịp
thăm hỏi ông tại Los Angeles vào năm 1996 , cũng theo lời ông thì ông đã
viết xong vào trước năm 1975 , một cuốn ký sự về thời gian bị bắt làm tù
binh trong lục dịa Trung Hoa nhưng không được Tổng Cục Chiến Tranh Chính
Trị cho xuất bản vì chưa phải lúc thuận tiện .
Vào khoảng 22 giờ tối , tôi trực tiếp nói chuyện
bằng vô tuyến với tất cả Hạm Trưởng để cho hay là tình hình sẽ khó tránh
được một cuộc đụng độ , và yêu cầu các vị này chuẩn bị các chiến hạm và
huy động tinh thần nhân viên để sẵn sàng chiến đấu . Tôi biết rõ cuộc
chiến nếu xẩy ra thì tất cả nhân viên đều không đủ kinh nghiệm cho các
cuộc hải chiến , vì từ lâu các chiến hạm chỉ chú tâm và đã thuần thuộc
trong công tác tuần dương ngăn chặn hoặc yểm trợ hải pháo mà thôi , nếu
có những nhân viên đã phục vụ trong các giang đoàn tại các vùng sông
ngòi thì họ chỉ có những kinh nghiệm về chiến đấu chống các mục tiêu
trên bờ và với vũ khí tương đối nhẹ hơn và dễ dàng trấn áp đối phương
bằng hoả lực hùng hậu .
Vào khoảng 23 giờ tối ngày 18 , một lệnh hành
quân , tôi không còn nhớ được xuất xứ , có thể là của Vùng I Duyên Hải ,
được chuyển mã hoá trên băng tần SSB ( single side band ) ( Ghi chú của
Trần Ðỗ Cẩm : đây là công điện Mật/Khẩn chiến dịch mang số 50 356 , nhóm
ngày giờ 180020H/01/74 do BTL/HQ/V1ZH gửi với tiêu đề : Lệnh Hành Quân
Hoàng Sa 1 ) . Lệnh hành quân vừa được nhận vừa mã dịch ngay nên không
bị chậm trễ , và lệnh này ghi rõ quan niệm hành quân như sau : tái chiếm
một cách hoà bình đảo Quang Hoà . Lệnh hành quân cũng không ghi tình
hình địch và lực lượng trừ bị nhưng những kinh nghiệm từ trước tới nay
nhất là trong hai năm tôi đảm nhận trách vụ Tham mưu phó hành quân tại
BTL/HQ , tôi dự đoán Trung Cộng , vì đã thiết lập một căn cứ tiền phưong
tại đảo Phú lâm thuộc nhóm Tuyên đức nằm về phía đông bắc đảo Hoàng Sa
sát vĩ tuyến 17 , nên họ đã có thể đã phối trí tại đây lực lượng trừ
bị , và hơn nữa trên đảo Hải Nam còn có một căn cứ Hải Quân rất lớn và
một không lực hùng hậu với các phi cơ MIG 19 và 21 với khoảng cách gần
hơn là từ Ðà Nẵng ra . Việc Trung Cộng lấn chiếm những đảo không có quân
trú phòng của ta trong vùng Hoàng Sa , đã phải được họ chuẩn bị và thiết
kế chu đáo từ lâu trước khi tái tuyên bố chủ quyền . Trong khi đó việc
Hải Quân VNCH phát hiện sự hiện diện của họ chỉ có từ khi Tuần Dương Hạm
HQ16 được lệnh đến thăm viếng định kỳ và chở theo phái đoàn công binh
Quân Đoàn I ra thám sát đảo để dự kiến việc thiết lập một phi đạo
ngắn .
Ngay sau khi hoàn tất nhận lệnh hành quân , tôi
chia Hải Đoàn thành hai phân đoàn đặc nhiệm : Phân đoàn I là nỗ lực
chính gồm Khu Trục Hạm HQ4 và Tuần Dương Hạm HQ5 do Hạm Trưởng Khu Trục
Hạm HQ4 chỉ huy ; Phân đoàn II là nỗ lực phụ gồm Tuần Dương Hạm HQ16 và
Hộ tống hạm HQ10 do Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm HQ16 chỉ huy . Nhiệm vụ là
phân đoàn II giữ nguyên vị trí trong lòng chảo Hoàng Sa để tiến về đảo
Quang Hoà vào buổi sáng . Phân đoàn I khởi hành vào 12 : 00 đêm đi bọc
về phía tây rồi xuống phía Nam sẽ có mặt tại nam đảo Quang Hoà vào 06 :
00 sáng ngày hôm sau tức là ngày 19 để đổ bộ biệt đội hải kích . Phân
đoàn I phải đi bọc ra phía tây quần đảo thay vì đi thẩng từ đảo Hoàng Sa
xuống đảo Quang Hoà là để tránh việc các chiến hạm Trung Cộng có thể lại
vận chuyển ngăn chặn đường tiến của chiến hạm như họ đã làm vào buổi
chiều , vả lại việc hải hành tập đội về đêm trong vùng có bãi cạn và đá
ngầm có thể gây trở ngại cho các chiến hạm , nhất là Khu Trục Hạm còn có
bồn SONAR ( máy dò tiềm thuỷ đĩnh ) , hy vọng hải trình như vậy sẽ tạo
được yếu tố bất ngờ . Hơn nữa về mùa gió đông bắc , việc đổ bộ vào phía
tây nam sẽ tránh được sóng biển cho xuồng bè . Nên ghi nhận tại điểm này
là kể từ năm 1973 , toán cố vấn HQ Hoa Kỳ tại Hạm Đội mà trưởng toán là
HQ Ðại Tá Hamn ( tên họ ) đã nhiều lần yêu cầu tháo gỡ máy Sonar trên
các Khu Trục Hạm . Phó Ðề Ðốc Nguyễn thành Châu ( lúc đó còn mang cấp HQ
Ðại Tá ) Tư Lệnh Hạm Đội đã trao nhiệm vụ cho tôi thuyết phục họ giữ máy
lại để dùng vào việc huấn luyện . Mãi đến khi HQ Ðại Tá Nguyễn xuân Sơn
nhận chức Tư Lệnh Hạm Đội một thời gian , tôi vẫn tiếp tục liên lạc với
toán cố vấn , và sau cùng họ mới bằng lòng giữ máy lại với tính cách để
huấn luyện . Thực ra một Khu Trục Hạm mà thiếu máy thám xuất tiềm thuỷ
đĩnh thì khả năng tuần thám và tấn công sẽ giảm đi nhiều .
Diễn tiến trận hải chiến ngày 19/01/1974
Sơ đồ điều quân của trận hải chiến Hoàng Sa
quanh hai đảo Duy Mộng và Quang Hoà Đông ( chữ Hán là ghi chú của phía
Trung Cộng , vị trí chiến hạm TC khá phù hợp với thực tế ) .Sơ đồ này
dựa theo các vị trí trong Phúc trình Hành Quân Hoàng Sa của Soái hạm HQ
5 có chữ ký và đóng dấu của HQ Trung Tá Pham Trọng Quỳnh .
Ðúng 06 sáng ngày 19 , trời vừa mờ sáng , Phân đoàn I đã có mặt tại Tây
Nam đảo Quang Hoà , thuỷ triều lớn , tầm quan sát trong vòng 1,50 đến
non 2,00 hải lý , trời có ít mây thấp nhưng không mưa , gió Đông Bắc
thổi nhẹ , biển tương đối êm tuy có sóng ngầm . Phân đoàn I tiến sát đảo
khoảng hơn 1 hải lý , Tuần Dương Hạm HQ5 nằm gần bờ hơn một chút để
thuận tiện đổ bộ hải kích . Hai chiếc Kronstad 271 và 274 bị bất ngờ rõ
rệt nên thấy họ đã vận chuyển lúng túng và không thực hiện được hành
động ngăn cản như họ đã từng làm vào chiền hôm trước . Tôi cũng bị bất
ngờ là hai chiếc chủ lực địch lại có mặt cùng một nơi để sẵn sàng đối
đầu mà tôi không phải tìm kiếm họ , như tôi đã coi họ như là muc tiêu
chính . Họ đã phải luồn ra khỏi khu lòng chảo vào ban đêm , nhưng không
hiểu là họ có theo dõi được đuờng tiến quân của Phân đoàn I hay không .
Vào giờ này thì họ đã phải biết rõ là Tuần Dương Hạm HQ5 là chiến hạm
chỉ huy của ta và cũng đã phải biết được hoả lực của chiếc Khu Trục
Hạm .
Biệt đội hải kích do HQ Ðại Uý Nguyễn Minh Cảnh chỉ
huy đã được tôi chỉ thị là không được nổ súng và lên bờ yên cầu toán
quân của họ rời đảo . Trong biệt đội này có một chiến sĩ hải kích Ðỗ Văn
Long và luôn cả HQ Ðại Uý Nguyễn Minh Cảnh là những chiến sĩ đã tham dự
cuộc hành quân đầu tiên Trần hưng Ðạo 22 ( nếu tôi không lầm ) cũng do
tôi chỉ huy để xây cất doanh trại và đặt quân trú phòng đầu tiên trên
đảo Nam Yết thuộc quần đảo Trường Sa vào cuối mùa Hè năm 1973 .
Một lần nữa , khi biệt đội hải kích xuồng xuồng cao
su , tôi đích thân ra cầu thang căn dặn và nhấn mạnh về việc đổ bộ mà
không được nổ súng , và khi bắt liên lạc được với họ thì yêu cầu họ rời
khỏi đảo .
Tôi không chắc là cuộc đổ bộ sẽ thành công vì quân
Trung Cộng trên đảo đã phải tổ chức bố phòng cẩn mật tiếp theo sự thất
bại của họ trên các đảo khác đã nói ở trên , trong khi đó biệt đội hải
kích lại không có được hoả lực chuẩn bị bãi đổ bộ . Một lần nữa tôi lại
chỉ thị cho các Hạm Trưởng chuẩn bị để chiến đấu . Nếu cuộc đổ bộ thất
bại thì với hoả lực của 2 khẩu 76 ly tự động trên Khu Trục Hạm HQ4 , một
chiến hạm chủ lực của Hải Đoàn đăc nhiệm , sẽ có đủ khả năng loại ít
nhất là hai chiến hạm chủ lực Trung Cộng ra khỏi vòng chiến không mấy
khó khăn , còn quân bộ của Trung Cộng trên đảo thì tôi tin chỉ là một
mục tiêu thanh toán sau cùng . Tôi còn có ý định là sẽ điều động chiếc
Khu Trục Hạm vượt vùng hơi cạn trực chỉ hướng bắc vào thẳng vùng lòng
chảo để tăng cường cho Phân Đoàn II nếu cần sau khi đã loại xong 2 chiếc
Kronstad mà tôi luôn luôn cho là mục tiên chính . Tôi rất vững lòng vào
hoả lực của chiến hạm chủ lực vì tôi đã được tường trình đầy đủ về khả
năng của hải pháo 76 ly tự động khi Khu Trục Hạm này yểm trợ hải pháo
tại vùng Sa huỳnh trong nhiệm kỳ Hạm Trưởng của HQ Trung Tá Nguyễn Quang
Tộ .
Biệt đội hải kích tiến vào đảo bằng 2 xuồng cao
su , từ chiến hạm ta , việc quan sát sự bố phòng của Trung Cộng trên đảo
không được rõ ràng . Các chiến hạm Trung Cộng cũng không có phản ứng gì
đối với xuồng của hải kích . Theo báo cáo của Biệt đội trưởng hải kích
thì chiến sĩ hải kích Ðỗ Văn Long là người đầu tiên tiến vào đảo và vừa
nổ súng vừa tiến vào trong nên đã bị hoả lực trong bờ bắn tử thương ngay
tại bãi biển . HQ Trung Uý Lê văn Ðơn ( xuất thân từ bộ binh ) tiến vào
để thâu hồi tử thi của liệt sĩ Long cũng lại bị tử thương ngay gần xuồng
nên tử thi vị sĩ quan này được thâu hồi ngay . Việc thất bại đổ bộ được
báo cáo ngay về Bộ Tư Lệnh HQ Vùng I Duyên Hải và chừng ít phút sau đó
( vào khoảng 0930 sáng ) thì đích thân Tư Lệnh HQ VNCH hay Tư Lệnh Vùng
I Duyên Hải ra lệnh vắn tắt có hai chữ : « khai hoả » bằng bạch văn cho
Hải Đoàn Đặc Nhiệm và không có chi tiết gì khác hơn . Tôi nhận biết được
khẩu lệnh trên băng siêu tần số SSB ( single side band ) không phải là
của nhân viên vô tuyến mà phải là của cấp Ðô Đốc , nhưng từ đó đến nay
tôi vẫn tin rằng là của Tư Lệnh Hải Quân mà tôi đã quen thuộc giọng
nói , nên tôi đã không kiểm chứng thêm về sau . Tôi trở nên yên tâm hơn
vì khẩu lệnh khai hoả đã giải toả trách nhiệm của tôi ghi trong phần
quan niệm của lệnh hành quân là tái chiếm một cách hoà bình . Tôi đích
thân vào máy siêu tần số trình ngay là chưa có thể khai hoả được vì phải
chờ triệt thối Biệt đội hải kích về chiến hạm , họ còn trên mặt biển và
ở vào vị thế rất nguy hiểm . Riêng tử thi của liệt sĩ hải kích Ðỗ Văn
Long tôi lệnh không cho vào lấy vì có thể gây thêm thương vong . Tôi tin
rằng tử thi của Liệt Sĩ Long sẽ không khó khăn để thâu hồi khi toán quân
bộ Trung Cộng được tiêu diệt sau đợt các chiến hạm của họ bị loại hoàn
toàn khỏi vòng chiến .
Vào khoảng gần 10 giờ sáng , biệt đội hải kích được
hoàn tất thu hồi về Tuần Dương Hạm HQ5 với HQ Trung Uý Lê Văn Ðơn tử
thương . Trong khi đó thì tôi chỉ thị cho các chiến hạm chuẩn bị tấn
công , mỗi chiến hạm tấn công một chiến hạm địch , và bám sát địch trong
tầm hải pháo 40 ly ( khoảng 3 cây số ) , vì loại hải pháo này có nhịp
tác xạ cao , dễ điều chỉnh và xoay hướng nhanh hơn . Tôi không tin tưởng
nhiều vào hải pháo 127 ly và khả năng điều khiển chính xác của nhân viên
vì hải pháo chỉ có thể tác xạ từng phát một , nạp đạn nặng nề và chậm
xoay hướng nên tốt hơn là trực xạ .
Tất cả các chiến hạm phải cùng khai hoả một lúc
theo lệnh khai hoả của tôi để tạo sự bất ngờ và sẽ gây thiệt hại trước
cho các chiến hạm Trung Cộng . Vì tầm quan sát còn rất hạn chế , nên từ
Tuần Dương Hạm HQ5 không quan sát được Tuần Dương Hạm HQ16 và Hộ tống
hạm HQ10 cũng như hai chiến hạm khác và hai ngư thuyền nguỵ trang của
Trung Cộng nên tôi không rõ các chiến hạm này bám sát các chiến hạm
Trung Cộng được bao nhiêu , nhưng tôi đã tin rằng Phân Đoàn II không có
bận tâm về việc đổ bộ nên có nhiều thì giờ hơn để thi hành kế hoạch tấn
công và sẽ dễ dàng chế ngự được hai chiến hạm phụ của địch cùng hai ngư
thuyền . Riêng Tuần Dương Hạm HQ5 và Khu Trục Hạm HQ4 đã nghiêm chỉnh
thi hành lệnh . Trước khi ban hành lệnh khai hoả tôi lần nữa hỏi các
chiến hạm đã sẵn sàng chưa và nhấn mạnh một lần nữa là phải khai hoả
đồng loạt để đạt yếu tố bất ngờ . Các Hạm Trưởng đích thân trên máy
VRC46 lần lượt báo cáo sẵn sàng . Tôi rất phấn khởi vì giờ tấn công
hoàn toàn do tôi tự do quyết định , không phải lệ thuộc vào lệnh của
thượng cấp và vào ý đồ chiến thuật của địch . Ðịch lúc này đã tỏ ra
không có một ý định gì cản trở hay tấn công chiến hạm ta .
Hải Quân Ðại Tá Ðỗ Kiểm , Tham Mưu Phó Hành Quân
tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân còn đặc biệt cho tôi hay là có chiến hạm bạn ở
gần , nhưng với sự hiểu biết của tôi , tôi không có một chút tin tưởng
gì vào đồng mình này vì kể từ tháng 02/1972 khi Hoa Kỳ và Trung Cộng đã
chấm dứt sự thù nghịch nên Hải Quân của họ sẽ không một lý do gì lại
tham dự vào việc hỗ trợ Hải Quân Việt Nam trong vụ tranh chấp về lãnh
thổ . Hoạ chăng họ có thể cứu vớt những người sống sót nếu các chiến hạm
HQVN lâm nạn . Nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc tìm kiếm những
nhân viên từ Hộ Tống Hạm HQ10 và các toán đã đổ bộ lên trấn giữ các đảo
đã đào thoát để trở về đất liền , chúng ta không nhận thấy một hành động
nhân đạo nào từ phía đồng minh kể cả của phi cơ không tuần .
Khoảng 1024 sáng thì lệnh khai hoả tấn công được
ban hành và tôi vào trung tâm chiến báo trực tiếp báo cáo bằng máy siêu
tần số SSB , tôi đã cố ý giữ ống nói sau khi tôi chấm dứt báo cáo để
tiếng nổ của hải pháo cũng được truyền đi trên hệ thống này . Cuộc khai
hoả tấn công đã đạt được yếu tố bất ngờ cho các chiến hạm địch vì tôi
cho rằng họ vẫn tin là các hành động của chiến hạm cũng tương tự như
trong những vài ngày trước , khi Hải Quân Việt Nam đổ quân trên các đảo
Cam tuyền , Vĩnh Lạc và Duy Mộng và nhất là cuộc phô diễn lực lượng của
Hải Đoàn Đặc Nhiệm ngày hôm trước Hải Quân Việt Nam đã không có một hành
dộng khiêu khích nào , mà còn chấp thuận giữ liên lạc bằng quang hiệu .
Chiếc Kronstad 271 nằm về hướng tây gần đảo Quang
Hoà , hướng mũi về phía tây là mục tiêu của Tuần Dương Hạm HQ5 đang
hướng mũi vào bờ tức là phía đông , đặt mục tiêu về phía tả hạm ( tức là
phía Bắc ) . Chiếc này bị trúng đạn ngay từ phút đầu , vận chuyển rất
chậm chạp nên đã là mục tiêu rất tốt cho Tuần Dương Hạm HQ5 . Hoả lực
của chiếc Kronstad 271 này không gây nhiều thiệt hại cho Tuần Dương Hạm
HQ5 , nhưng có thể đã gây thiệt hại nặng cho Hộ tống hạm HQ10 nằm về
phía Bắc . Khu Trục Hạm HQ4 nằm về phía tây nam của Tuần Dương Hạm HQ5
đặt mục tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía Bắc tức là tả hạm của
chiến hạm . Nhưng chẳng may , HQ4 báo cáo bị trở ngại tác xạ ngay từ
phút đầu tiên và phải chờ sửa chữa . Việc này đã làm đảo lộn các dự tính
của tôi và làm tôi bối rối . Sau vài phút thì chiến hạm này xin bắn thử
và kết quả là vẫn bị trở ngại và cần tiếp tục sửa chữa thêm , nhưng tôi
vẫn còn chút hy vọng . Khu Trục Hạm HQ4 vài phút sau lại xin tác xạ thử
lần thứ ba nhưng vẫn không có kết quả , tuy nhiên chiến hạm này vẫn phải
tiếp tục bám sát mục tiêu của mình trong tầm các loại đại liên nên đã bị
thiệt hại nhiều bởi hoả lực của chiếc Kronstad 274 , và đại liên đã
không áp đảo được hoả lực của địch .
Trên Tuần Dương Hạm HQ5 , tôi xử dụng chiếc máy PRC
25 trước ghế Hạm Trưởng bên hữu hạm của đài chỉ huy để liên lạc với các
chiến hạm , tôi vừa rời ghế để ra ngoài quan sát hai phía thì một trái
đạn loại nổ mạnh gây một lỗ lủng khoảng nửa thước đường kính và làm nát
máy PRC25 , nên từ phút này trở đi tôi phải vào tận Trung tâm chiến báo
để dùng máy VRC46 . Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm HQ5 đứng cạnh đài chỉ huy
bên tả hạm với sĩ quan hải pháo để dễ quan sát mục tiêu được chỉ định ,
nên tôi thường nói trực tiếp với Hạm Trưởng tại nơi này . Trung tâm
chiến báo của chiến hạm này chỉ quen thuộc dùng radar vào việc hải
hành , vả lại trời mù , mây thấp , radar có nhiều nhiễu xạ nên tôi không
được rõ về vị trí của Phân Đoàn II và các chiến hạm của địch còn nằm
trong khu lòng chảo Hoàng Sa .
Sau chừng 15 phút thì Tuần Dương Hạm HQ16 báo cáo là bị trúng đạn hầm
máy , tầu bị nghiêng nên khả năng vận chuyển giảm sút , buộc phải lui ra
ngoài vòng chiến để sửa chữa và cũng không còn liên lạc được với Hộ Tống
Hạm HQ10 , không biết rõ tình trạng và chỉ thấy nhân viên đang đào
thoát . Tôi nhận thấy một Tuần Dương Hạm đã vận chuyển nặng nề mà chỉ
còn một máy và bị nghiêng , nếu tiếp tục chiến đấu thì sẽ là một mục
tiêu tốt cho địch , nên tôi đã không ra phản lệnh . Khu Trục Hạm HQ4
đã bị thiệt hại nhiều sau khi phải bám sát chiến hạm địch trong tầm đại
liên , nên tôi ra lệnh cho Khu Trục Hạm HQ4 phải rút ra khỏi vòng chiến
ngay và chỉ thị cho Tuần Dương Hạm HQ5 yểm trợ cho chiếc này khi tiến ra
xa , vì tất nhiên Hải đội đặc nhiệm không thể để bị thiệt hại một Khu
Trục Hạm mà Hải Quân VNCH chỉ có tổng cộng 2 chiếc mà thôi .
Khi Khu Trục Hạm HQ4 ra khỏi vùng chiến , lại
không bị chiếc Kronstad 274 truy kích hoặc tác xạ đuổi theo , ngược lại
chiếc này của địch có phần rảnh tay hơn để tấn công Tuần Dương Hạm HQ5
vào phía hữu hạm hầu giảm bớt hoả lực của chiến hạm ta như để cứu vãn
chiếc 271 đang bị tê liệt . Vào giờ này thì tin tức từ Bộ Tư Lệnh
Hải Quân tại Sài Gòn do chính Tham mưu phó hành quân cho hay là một phi
đội khu trục cơ F5 đã cất cánh để yểm trợ cho Hải Đoàn Đặc Nhiệm . Do sự
liên lạc từ trước với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I Không Quân tại Ðà Nẵng , tôi
hiểu là phi cơ F5 chỉ có thể yểm trợ trong vòng 5 tới 15 phút mà thôi vì
khoảng cách từ Ðà Nẵng tới Hoàng Sa quá xa so với nhiên liệu dự trữ .
Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi cơ cất cánh , Bô Tư Lệnh Hải Quân đã
cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững tâm chiến đấu . Một điều nữa là
từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao dượt hỗn hợp
nào giữa Không Quân và Hải Quân nên tôi rất lo âu về sự nhận dạng của
phi công để phân biệt giữa chiến hạm của Hải Quân Việt Nam và chiến hạm
Trung Cộng , nhất là lúc có mây mù thấp , nên phi cơ có thể gây tác xạ
nhầm mục tiêu . Máy VRC 46 trong Trung tâm chiến báo phải chuyển sang
tần số không hải và đích thân tôi dùng danh hiệu để bắt liên lạc với phi
cơ . Một viên đạn xuyên nổ trúng ngay Trung tâm chiến báo từ hữu hạm ,
sát gần ngay nơi tôi đứng , làm trung tâm bị phát hoả . Các nhân viên
trong trung tâm còn mải núp sau bàn hải đồ thì tôi nhanh tay với một
bình cứu hoả gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa . Tôi bị té ngã vì
vấp chân vào bàn hải đồ , bàn chân trái bị đau mất vài ngày . Tôi vẫn
vẫn tiếp tục liên lạc với phi cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không
thấy đáp ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần số về liên lạc với các
chiến hạm khác vì cuộc giao tranh đã đến độ khốc liệt hơn . Sau phút này
thì Tuần Dương Hạm HQ5 bị trúng nhiều đạn làm sĩ quan trưởng khẩu 127 ly
tử thương và hải pháo bị bất khiển dụng vì phần điện điều khiển pháo
tháp tê liệt , và máy siêu tần sớ SSB không còn liên lạc được vì giây
trời bị sập rớt xuống sàn tầu , hiệu kỳ hải dội bị rách nát phần đuôi .
Tôi ra ngoài quan sát phía tả hạm và được nghe báo cáo là hầm đạm phát
hoả . Tôi nói ngay với Hạm Trưởng là cằn phải làm ngập hầm đạn . Khẩu
hải pháo 40 ly đơn tả hạm bị bất khiển dụng vì bị trúng đạn vào khối nạp
đạn và khẩu 40 ly hữu hạm bị hư hại nhẹ . Tôi yêu cầu Hạm Trưởng là chỉ
nên cho tác xạ từng viên mà thôi , vì nhu cầu phòng không rất có thể xẩy
ra trong một thời gian ngắn .
Bất thần về phía Đông vào khoảng 1125 giờ sáng cách
xa chừng 8 đến 10 hải lý , xuất hiện một chiến hạm của Trung Cộng loại
có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hoả tiễn loại hải hải ( Ghi chú
của Trần Ðỗ Cẩm : đây là loại khinh tốc đĩnh Komar ) đang tiến vào
vùng giao tranh với một tốc độ cao , quan sát được bằng mắt viễn kính và
không một chiến hạm nào báo cáo khám phá được bằng radar từ xa . Tôi dự
đoán loại chiến hạm này ít khi được điều động từng chiếc một , và tin là
có thể thêm ít nhất một chiếc theo sau . Với tình trạng của Hải Đội Đăc
Nhiệm : 1 Hộ Tống Hạm bị loại khỏi vòng chiến ; 1 Tuần Dương Hạm bị
thương nơi hầm máy ; 1 Khu Trục Hạm và 1 Tuần Dương Hạm chỉ còn hoả lực
rất hạn chế ; cộng với nguy cơ bị tấn công bằng cả hoả tiễn hải hải cũng
như bằng phi cơ rất có thể xẩy ra , nên tôi triệt thoái phần còn lại của
lực lượng là Khu Trục Hạm HQ4 và Tuần Dương Hạm HQ5 ra khỏi vùng Hoàng
Sa tiến hướng Đông Nam về phía Subic Bay ( Hải Quân công xưởng của Hoa
Kỳ tại Phi luật tân ) . Tôi cũng cầu nguyện Ðức Thánh Trần , Thánh Tổ
của Hải Quân VNCH ban cho tôi một trận mưa để giảm tầm quan sát và khả
năng tấn công của phi cơ địch . Sau khi hai chiến hạm còn lại rút ra
khỏi vùng giao tranh chừng 10 phút thì một trận mưa nhẹ đã đổ xuống toàn
vùng quần đảo Hoàng Sa . Các chiến hạm ta đã không bị truy kích và phi
cơ địch cũng chưa xuất hiện . Mục đích tôi hướng về phía Đông Nam là để
tránh bị phục kích của tiềm thuỷ đĩnh Trung Cộng tại hải trình Hoàng Sa
Ðà Nẵng , và khi ra ngoài xa lãnh hải thì nếu còn bị tấn công bằng phi
cơ hoặc tiềm thuỷ đĩnh thì may ra đồng minh Hải Quân Hoa Kỳ có thể cấp
cứu chúng tôi dễ dàng hơn theo tinh thần cấp cứu hàng hải quốc tế . Nếu
chúng tôi không còn bị tấn công thì việc đến Subic Bay Phi Luật tân để
xin sửa chữa trước khi hồi hương là một điều khả dĩ được thượng cấp chấp
thuận .
Tuần Dương Hạm HQ5 phải mất gần một giờ mới kéo lên
được giây trời khẩn cấp để tái lập sự liên lạc bằng máy siêu tần số
SSB . Hầm đạn phía mũi của chiến hạm đã bị làm ngập , mũi bị chúc xuống
nên tốc độ có bị thuyên giảm . Chính trong thời gian mất liên lạc , Bộ
Tư Lệnh tại Sài Gòn cũng như tại Ðà Nẵng rất bối rối cho sự an toàn của
2 chiến hạm và bản thân tôi . Chính Tư Lệnh Hạm Đội tại Sài Gòn cũng đã
đưa tin mất liên lạc đến với gia đình tôi .
Vào khoảng 13 G trưa , 2 chiến hạm HQ4 và HQ5 đã
cách Hoàng Sa chừng 10 hải lý , trời nắng và quang đãng . Tư Lệnh Hải
Quân đích thân ra lệnh cho cả 2 chiến hạm phải trở lại Hoàng Sa và đánh
chìm nếu cần , tôi nhận được giọng nói của Ðô Đốc . Lệnh đã được thi
hành nghiêm chỉnh ngay tức khắc . Sau khi liên lạc vô tuyến siêu tần số
được điều hoà trở lại thì mọi báo cáo chi tiết về tổn thất và tình trạng
lúc bấy giờ của các hai chiến hạm được chuyển đầy đủ . Trên Tuần Dương
Hạm HQ5 tôi cũng được thông báo về Tuần Dương Hạm HQ16 sẽ được Tuần
Dương Hạm HQ6 tới hộ tống về Căn cứ Hải Quân Ðà Nẵng .
Ðến khoảng 1430 G chiều , khi cả hai chiến hạm đang
trở về Hoàng Sa , quá ngang Hòn Tri Tôn , nghĩa là còn cách đảo Hoàng Sa
chừng 1 giờ rưỡi hải hành nữa , thì hai chiến hạm được phản lệnh trở về
Ðà Nẵng . Lúc này trời đã nắng , mây cao nên rất dễ dàng cho việc hải
hành . Trong một cuộc đến thăm Tư Lệnh Hải Quân VNCH tại tư dinh vào
khoảng tháng 02/1974 , thì vị Ðô Ðốc này đã tiết lộ rằng nếu biết được
sớm tình trạng của Hải Đoàn Đặc Nhiệm thì Tư Lệnh đã cho lệnh trở về căn
cứ trước sớm hơn . Trên đường về , tôi vẫn ra lệnh cho các chiến hạm giữ
nguyên nhiệm sở tác chiến và nhất nhất các nhân viên không ở trong nhiệm
sở phòng máy phải túc trực trên boong để tránh tổn thất về nhân mạng
trong trường hợp bị tiềm thuỷ đĩnh Trung Cộng phục kích bằng ngư lôi .
Nhưng may mắn là điều tôi dự liệu đã không xẩy ra . Các chiến hạm đã
khởi sự ngay thu dọn các tổn thất về vật liệu và thu hồi các dư liệu tác
xạ .
Tôi tò mò mở đài phát thanh BBC vào sáng sớm ngày
20 , thì họ chỉ vỏn vẹn loan tin một trận hải chiến đã xẩy ra trong vùng
quần đảo Hoàng Sa giữa Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà và Cộng Hoà Nhân dân
Trung Hoa , mỗi bên thiệt hại 1 chiến hạm và không thêm một chi tiết nào
khác . Tôi tỏ ra khâm phục đài nay về sự loan tin nhanh chóng và xác
đáng .
Tôi đã không hút thuốc từ nhiều tháng qua , nhưng
tôi muốn hút một vài điếu thuốc cho tinh thần bớt căng thẳng sau gần 48
tiếng đồng hồ liên tục không được nghỉ ngơi , tôi yêu cầu Hạm Trưởng
dùng hệ thống liên hợp để loan báo xem có nhân viên nào còn thuốc lá cho
tôi xin một ít để hút . Tôi không ngờ là các nhân viên tuần tự mang đến
cho tôi hơn 2 chục bao cả loại trong khẩu phần C của đồng minh và các
loại thuốc trong thương trường lúc bấy giờ , tôi lấy làm cảm động về sự
ưu ái của các nhân viên trên chiến hạm này . Vào khoảng 2 giờ đêm tôi
soạn thoản một sơ đồ hành quân và các chi tiết về tổn thất để chuẩn bị
thuyết trình khi về tới căn cứ .
Khoảng 07 G sáng ngày 20/01 thì hai chiến hạm của
Phân Đoàn I về tới căn cứ an toàn . Tuần Dương Hạm HQ16 cũng đã về bến
trước đó ít lâu . Một điều mà các nhân viên của các chiến hạm và riêng
tôi rất cảm động là trên cầu Thương cảng Ðà Nẵng là nơi đã được chỉ định
cho các chiến hạm cặp bến , đã có sự hiện diện của các vị Ðô Ðốc Tư Lệnh
và Tư Lệnh Phó HQ VNCH , Ðô Ðốc Tư Lệnh HQ Vùng I Duyên Hải , một số
đông sĩ quan cùng nhân viên của các đơn vị HQ vùng Ðà Nẵng cùng các trại
gia binh đã túc trực đón đoàn chiến hạm trở về với rừng biểu ngữ :
« Hải Quân Việt Nam quyết tâm bảo vệ lãnh thổ đến
giọt máu cuối cùng » .
« Một ý chí : chống cộng . Một lời thề : bảo vệ quê hương » .
« Hoan hô tinh thần chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Hải Quân tham dự
Hải chiến Hoàng Sa » .
« Hoan hô tinh thần bất khuất của các chiến sĩ Hải chiến Hoàng Sa » .
Sau khi di tản các chiến sĩ thương vong và tử vong
lên căn cứ thí chỉ có 3 vị Ðô Ðốc cùng HQ Ðại Tá Nguyễn viết Tân Chỉ Huy
Trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải lên Tuần Dương Hạm HQ5 và vào phòng khách
của Hạm Trưởng để dự cuộc thuyết trình về trận đánh . Ba vị Hạm Trưởng
đều có mặt để trình bầy chi tiết về chiến hạm của mình . Các vị Ðô Đốc
cũng không hỏi thêm tôi về những yếu tố đã đưa đến những quyết định
chiến thuật của tôi , nhất là quyết định triệt thoái phần còn lại của
Hải Đoàn Đặc Nhiệm ra khỏi vùng Hoàng Sa . Sau phần thuyết trình các vị
Ðô Ðốc đã đi quan sát sự thiệt hại của các chiến hạm và uý lạo nhân viên
các cấp . Tôi cũng được nghe Ðô Đốc Tư Lệnh Phó đề nghị với Tư Lệnh HQ
là sẽ không có thuyết trình cho Tư Lệnh Quân Đoàn I .
Sau chừng một giờ thì Trung Tướng Tư Lệnh Quăn đoàn
I / Quân Khu I cũng tới thăm viếng và được hướng dẫn quan sát một vòng
các chiến hạm để nhận định sự thiệt hại ...
Kết quả của trận hải chiến
Hoàng Sa Vị Quốc Vong Thân
Một cách tổng quát thì sự thiệt hại của hai đối thủ
được kể như tương đương trong trận hải chiến . Mỗi bên bị tổn thất một
chiến hạm , như đài BBC loan tin vào sáng sớm ngày 20/01 , phía VNCH là
Hộ tống hạm HQ10 , phía Trung Cộng là chiếc Kronstad 271 ( được coi là
chiến hạm chỉ huy ) còn một số khác thì chịu một sự hư hại trung bình
hoặc trên trung bình . Hai chiếc nhỏ hơn 389 và 396 cùng hai ngư thuyền
nguỵ trang theo tôi ước lượng chỉ hư hỏng hơi nặng mà thôi vì tầm hoả
lực của ta trội hơn . Riêng chiếc Kronstad 271 có thể bị tổn thất nhiều
nhân viên hơn vì trúng nhiều hải pháo của Tuần Dương Hạm HQ5 vào thương
tầng kiến trúc , trong khi đó chiếc 274 thì tổn thất được coi là nhẹ hơn
cả vì chỉ bị tấn công nhiều bằng đại liên và ít hải pháo về sau này .
Tuy nhiên trong các trận hải chiến thì người ta thường kể về số chiến
hạm bị loại khỏi vòng chiến hơn là số thương vong về nhân mạng . Riêng
trên Hộ tống ham HQ10 , theo các nhân viên đã đào thoát về được đất
liền , thì vị Hạm Trưởng và Hạm Phó đều bị thương nặng , nhưng Hạm
Trưởng đã từ chối di tản và quyết ở lại tuẫn tiết cùng chiến hạm của
mình theo truyền thống của một sĩ quan Hải Quân và một nhà hàng hải .
Hạm Phó được nhân viên dìu đào thoát được nhưng đã phải bỏ mình trên mặt
biển vì vết thương quá nặng . Vụ này làm tôi nhớ lại , theo lời kể của
các bậc tiên sinh , thì khi Hải Quân Pháp hành quân trên sông ( nếu
không lầm thì là Sông Ðáy ) một chiến hạm loại trợ chiến hạm ( LSSL )
hay Giang pháo hạm ( LSIL ) đã bị trúng đạn đài chỉ huy , làm tử thương
cả hai Hạm Trưởng và Hạm Phó cùng một lúc , sĩ quan cơ khí đã phải lên
thay thế tiếp tục chỉ huy . Sau kinh nghiệm này , Hải Quân Pháp không
cho Hạm Trưởng và Hạm Phó có mặt cùng một nơi khi lâm trận . Cá nhân tôi
lúc đó đã không có chút thì giờ để nhớ tới kinh nghiệm mà các bậc tiên
sinh đã truyền lại tôi mà áp dụng .
Một điều lạ là Trung Cộng có đủ khả năng tuy khiêm
nhượng , vào lúc cuối trận chiến , vì có thêm tăng viện đến kịp thời ,
nhưng đã bỏ rơi cơ hội truy kích khi lực lượng ta triệt thoái , hay xử
dụng hoả tiễn hải hải vì lực lượng ta vẫn còn nằm trong tầm hữu hiệu của
loại vũ khí này . Tôi cho rằng có thể họ đã bận tâm vào việc cứu vãn
chiếc Kronstad 271 và quân bộ trên đảo Quang Hoà , hoặc họ đã không nhận
được lệnh tấn công , và chỉ đương nhiên chống trả tự vệ mà thôi . Tôi
nhận rằng ước tính của tôi về phản ứng của địch đã cao hơn như thực tế
đã xẩy ra . Việc Hải Quân Viêt Nam khai hoả tấn công sau khi thất bại đổ
bộ đã tạo cho Trung Cộng có nguyên cớ vì bị tấn công mà phải hành động ,
nên đã dùng cường lực cưỡng chiếm các đảo vào ngày sau .
Theo các quân nhân trú phòng trên đảo Hoàng Sa thì
sáng sớm ngày hôm sau tức là ngày 20/01 , Trung Cộng đã huy động một lưc
lượng hùng hậu kết hợp hải lục Không Quân đổ bộ tấn chiếm đảo Hoàng Sa
và các đảo kế cận mà các chiến binh Hải Quân đang chiếm giữ . Theo ký
giả Lê Vinh , một cựu sĩ quan Hải Quân , đã từng đảm trách chức vụ thư
ký cũa Uỷ Ban Nghiên Cứu trận hải chiến cho biết , thì vào thời gian
trận hải chiến , Hải Quân Hoa Kỳ đã chuyển cho Hải Quân Việt Nam một tin
tức về 42 chiến hạm Trung Cộng với 2 tiềm thuỷ đĩnh đang tiến xuống
Hoàng Sa . Dù nhiều hay ít thì lực lượng của họ sễ trội hẳn lực lượng
Hải Quân Việt Nam có thể điều động tới . Nếu hai chiến hạm còn lại của
Hải Đoàn Đặc Nhiệm phải lưu lại Hoàng Sa như lệnh ban ra lúc đầu , với
khả năng chiến đấu đã bị giảm sút nhiều thì sự bảo tồn của hai chiến hạm
này rất mong manh . Thế cho nên phản lệnh cho hai chiến hạm phải trở về
căn cứ được kể như là đúng lúc và sát với thực tế hơn .
Trung Cộng đã bắt giữ tất cả quân nhân và dân chính
Việt Nam trên đảo Hoàng Sa và toán Hải Quân đổ bộ thuộc Khu Trục Hạm HQ4
trên đảo Vĩnh Lạc ( sát phía Nam đảo Hoàng Sa ) mà trưởng toán là HQ
Trung Uý Lê văn Dũng ( sau được vinh thăng HQ Ðại Uý tại mặt trận ) ,
làm tù binh đưa về giam giữ đầu tiên tại đảo Hải nam . Riêng ông Kosh là
nhân viên của cơ quan DAO Hoa Kỳ tại Ðà Nẵng thì được trao trả cho Hoa
Kỳ sớm nhất tại Hồng Kông . Còn các nhân viên Việt đã bị họ nhồi sọ về
chủ nghĩa của họ trong suốt thời gian tại Quảng Ðông , và trao trả về
Việt Nam tại ranh giới HồngKông và Trung Cộng . Ðô Đốc Tư Lệnh Phó HQ đã
được đề cử đích thân đến HồngKông tiếp nhận . Các chiến sĩ từ Trung Cộng
hồi hương đều được đưa vào Tổng Y viện Cộng Hoà điều trị về các bệnh
trạng gây ra do các hành động ngược đãi trong khi bị giam cầm trên lục
địa Trung Hoa .
Thế là cuối cùng thì Việt Nam Cộng Hoà đã mất nốt
nhóm đảo Nguyệt Thiềm phía Nam của cả quần đảo Hoàng Sa cho tới ngày hôm
nay .
Các chiến sĩ Hải Quân đào thoát từ Hoàng Sa , sau
nhiều ngày trôi dạt trên mặt biển , một số đã được chính các tuần duyên
đĩnh của Hải Quân cứu vớt , một số đã được các thương thuyền trên hải
trình Singapore HồngKông bắt gặp . Tất cả các chiến sĩ thoát hiểm được
đưa về diều trị tại các Tổng y viện Duy Tân ( Ðà Nẵng ) hay Cộng Hoà ,
và còn được Thủ Tướng chính phủ , các vị Tư Lệnh Quân Đoàn , và các vị
Ðô Đốc Hải Quân đến thăm hỏi và uý lạo .
Công cuộc chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa
Khi phần thăm viếng của thượng cấp kết thúc , thì
tất cả các chiến hạm bắt tay ngay vào việc sửa chữa và tái tiếp tế đan
dược đề chuẩn bị tấn kích tái chiếm Hoàng Sa . Một toán thợ thượng thặng
của Hải Quân công xưởng cũng đã được điều động từ Sài Gòn ra để phụ lực
với chuyên viên của Thuỷ xưởng Ðà Nẵng . Riêng Tuần Dương Hạm HQ16 , tuy
không bị hư hại nhiều trên thượng tầng kiến trúc , nhưng các chuyên viên
đã tháo gỡ được đần viên đạn đã xuyên lủng hầm máy . Viên đạn này là một
loại đạn xuyên phá và không nổ 127 ly của Tuần Dương Hạm HQ5 bị lạc .
Kinh nghiệm cho thấy là loại đầu đạn không nổ nếu trúng nước thì đạn đạo
sẽ thay đổi rất nhiều vì đầu đạn nhọn bị nước làm chuyển hướng đi rất
xa . Tin này do đích thân Tư Lệnh Phó Hải Quân mang đến cho tôi . Ðó là
một điều không may mắn cho Hải Đoàn Đặc Nhiệm Hoàng Sa , nhưng trong bất
cứ một cuộc chiến tranh nào , sự nhầm lẫn về mục tiêu , về bạn và địch ,
về vị trí tác xạ đều đã xẩy ra ít nhất là tại chiến trường Việt Nam .
Hơn nữa trong cuộc hải chiến này , Tuần Dương Hạm HQ5 đã tác xạ cả trăm
đại pháo 127 ly , mà chỉ có một viên bị lạc , nên vẫn còn là điều may
mắn . Việc chiến hạm bị trúng 1 viên đạn của bạn cộng với việc hai khẩu
hải pháo 76 ly tự động trên Khu Trục Hạm HQ4 đã bị trở ngại kỹ thuật
ngay từ phút đầu của cuộc chiến , là hai nhược điểm chiến thuật mà Hải
Quân VNCH chỉ muốn phổ biến hạn chế vào đầu năm 1974 là thời điểm , mà
nhiều sự phân tích đáng tin cho rằng Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đã lợi
dụng biến cố Hoàng Sa để tránh né sự chỉ trích của các phần tử đối lập
lúc đó đang rất mạnh .
Sau ít ngày sửa chữa , thì Tuần Dương Hạm HQ16 chỉ
đủ khả năng tự hải hành về quân cảng Sài Gòn và được đón tiếp trọng
thể . Khu Trục Hạm HQ4 không sửa chữa tại chỗ được hai khẩu 76 ly tư
động . Tuần Dương Hạm HQ5 , sau khi tái tiếp tế đạn và hàn vá các hư hại
đã cùng HQ6 ra khơi tìm kiếm các nhân viên đào thoát khỏi vùng Hoàng
Sa . Các phi cơ C130 đã bay lượn trong một vùng duyên hải hạn chế để
tránh sự hiểu nhầm về hành động khiêu khích của Việt Nam đối với Trung
Cộng . Các phi cơ hướng dẫn các chiến hạm xem xét các vật trôi trên mặt
biển nhưng vẫn chưa cấp cứu được nhân viên nào ngoại trừ vỏ một thùng
xăng dự trữ . Tôi vẫn có mặt trên Tuần Dương Hạm HQ5 để tham dự cuộc tìm
kiếm . Riêng hộ tống hạm HQ10 , vì mất liên lạc nên tôi đã không biết
được tình trạng cuối cùng của chiến hạm , nhưng chúng tôi vẫn còn một hy
vọng tuy mong manh là chiến hạm này chưa chìm hẳn và có thể trôi dạt về
phía duyên hải miền Trung trong mùa gió Đông Bắc .
Với Tuần Dương Hạm HQ6 đã có mặt trong vùng và vừa
hoàn tất hộ tống Tuần Dương Hạm HQ16 từ nửa đường Hoàng Sa Ðà Nẵng về
bến , cộng với HQ17 ( Hạm Trưởng HQ Trung Tá Trần Đình Trụ ) điều động
từ Trường Sa tới tăng cường đã kết hợp với Tuần Dương Hạm HQ5 thành một
Hải Đoàn Đặc Nhiệm mới với nhiệm vụ chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa . Mặc
dầu nhiều sĩ quan thâm niên hơn tôi có mặt tại chỗ , nhưng tôi vẫn được
chỉ định tiếp tục chỉ huy . Một cuộc thao dượt chiến thuật và thực tập
tác xạ đã diễn ra trong vòng một ngày tại vùng một đảo nhỏ nằm về phía
Bắc vùng Cù Lao Chàm phía Đông Nam Ðà Nẵng . Sau cuộc thao dượt , tôi
trình bầy kết quả việc huấn luyện trong các buổi thuyết trình hành quân
tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng , vẫn được Tư Lệnh Phó Hải Quân chủ toạ .
Nhưng cuối cùng thì công cuộc tái chiếm Hoàng Sa
được huỷ bỏ . Tuy vẫn được tín nhiệm để chỉ huy , nhưng tôi tin rằng
cuộc phản kích tái chiếm sẽ thất bại ngoại trừ đó là một chiến thuật thí
quân nằm trong một chiến lược cao hơn . Với các Tuần Dương Hạm cũ kỹ
( WHEC ) xử dụng trong lực lượng Phòng Vệ Duyên Hải Hoa Kỳ ( US Coast
guard ) từ lâu , được trang bị vào công tác tuần tiễu hơn là để chiến
đấu , vừa chạm chạp và vận chuyển nặng nề , nên khó chống trả lại với
các chiến hạm chiến đấu tối tân hơn . Loại này chỉ có một hải pháo 127
ly , còn 2 hải pháo 40 ly đã được Hải Quân Việt Nam đặt thêm vào lái tầu
là nơi đã được dùng làm sàn đáp trực thăng .
Trong thời gian tại căn cứ , Tư Lệnh Phó HQ ít nhất
đã hai lần tập hợp nhân viên tất cả các chiến hạm có mặt tại chỗ để chỉ
thị không được có hành động kiêu ngạo về chiến tích của Hải Quân VNCH .
Ðể làm gương cho tất cả nhân viên thuộc quyền , tôi đã giữ một thái độ
rất khiêm nhượng và im lặng . Tôi chưa bao giờ thảo luận hoặc trình bày
chi tiết với bất cứ một ai hay một tổ chức nào , về những yếu tố đã đưa
đến các quyết định chiến thuật của tôi trong trận đánh .
Tôi lưu lại Vùng I Duyên Hải chừng hơn một tuần
lễ , đã được cùng Phó Ðề Ðốc Tư Lệnh HQ Vùng I Duyên Hải xuất hiện trên
đài chỉ huy cũng của Tuần Dương Hạm HQ5 để thực hiện một phóng sự cho
đài truyền hình quân đội . Sau đó tôi trở về nhiệm sở chính tại Sài
Gòn . Tôi còn được đến phòng thâu hình của quân đội cùng các vị Hạm
Trưởng và một vài hạ sĩ quan trưởng pháo khẩu để trình bầy các chiến
tích . Tuy nhiên tôi không đề cập nhiều chi tiết và nhường lời lại nhiều
hơn cho các Hạm Trưởng vì tôi nghĩ rằng các vị này đáng được đề cao vì
đã đích thân huy động tinh thần nhân viên và can dảm trực tiếp chiến
đấu . Ít lâu sau tôi phải theo học Khoá Chỉ Huy Tham Mưu đặc biệt tại
Long Bình , đặc biệt vì khoá gồm nhiều các sĩ quan đang đảm trách những
vai trò then chốt của quân lực và các đại đơn vị . Khi Phó Ðề Ðốc Phụ Tá
hành quân biển của Tư Lệnh Hải Quân đến thuyết trình tại trường về tổ
chức của Hải Quân Việt Nam , thì một câu hỏi đầu tiên của khoá sinh là
về hải chiến Hoàng Sa . Ðô Đốc đã chuyển câu hỏi này cho tôi đang ngồi
trong hội trường , quả thật vị này đã trao cho tôi một trái banh khó
đỡ . Tôi đáp lại câu hỏi vỏn vẹn ngay là : Các quý vị đã nghiên cứu về
trận đánh Ấp Bắc , thì trận hải chiến Hoàng Sa cũng gần tương tự . Sau
câu trả lời của tôi thì không một câu hỏi nào về trận Hoàng Sa được nêu
ra thêm . Xin ghi thêm vào nơi này , trận Ấp Bắc đã làm cho quân lực bị
bất ngờ về chiến thuật cửa địch , có sự sai lầm về ước tính tình báo và
nhầm lẫn về chiến thuật điều quân .
Vào những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến Việt
Nam tôi được biệt phái giữ chức vụ Phụ Tá Hải Quân cho Trung Tướng Chỉ
Huy Trưởng trường Chỉ Huy Tham Mưu Liên Quân đồn trú tại Long Bình
Phần sau trận hải chiến
Sau trận hải chiến , Hải Quân được nhiều vinh danh
nhờ trận chiến đã nêu cao và nối tiếp được tinh thần chống bắc xâm của
dân tộc . Trận hải chiến được liên tục ca ngợi hàng ngày trên các phương
tiện truyền thông của quân đội cũng như ngoài dân sự để thêm vào với :
Bình long anh dũng , Kontom kiêu hùng v . v ... .
Hoàng Trường Sa với Việt Nam là một
Cũng nhờ trận hải chiến mà phần đông nhân dân Việt
Nam mới được biết đến phần lãnh thổ nằm xa vời trong Biển Ðông mà Hải
Quân VNCH từ ngày thành lập đã âm thần bảo vệ và tuần tiễu .
Nói về trận hải chiến , dù Hải Quân VNCH giả thử có
thắng được trận ngày đầu , thì chúng ta khó lường được sự tổn thất nếu
Hải Quân còn ở lại để cố thủ Hoàng Sa . Phó Ðề Ðốc Chủ Tịch Uỷ Ban
Nghiên Cứu về trận hải chiến khi vị này đích thân thăm viếng Khu Trục
Hạm HQ4 , khi đang nằm trong ụ lớn sửa chữa đã nói riêng với tôi : thế
là vừa đủ , ý của vị này nói là không nên tiếp tục chiến đấu thêm ít
nhất là vào thời điểm đó Hải Quân còn phải đảm nhận nhiều công tác tiễu
trừ Cộng Sản trong đất liền . Ðó là chưa kể việc tấn chiếm phần còn lại
của quần đảo Hoàng Sa có thể đã nằm trong các đường lối đi đêm chiến
lược của các cường quốc . Tôi nghĩ rằng nếu chiếc Khu Trục Hạm HQ4 không
bị trở ngại kỹ thuật và trận chiến đã xẩy ra gần như tôi đã dự liệu và
mong muốn , nghĩa là ta thắng trận đầu , thì cường lực hải lục không
quân của chúng huy động ngày hôm sau không những đủ sức tràn ngập quân
trú phòng và lại còn đủ sức truy kích Hải Quân VNCH trong một vùng rộng
lớn hơn . Tôi đã tin tưởng rằng Quân Đoàn I / Quân Khu I đã phải đặt
trong tình trạng báo động đề phòng sự tấn công của Trung Cộng ngay sau
khi trận hải chiến diễn ra . Một phi tuần chiến đấu cơ F5 của Sư Đoàn I
Không Quân tại Ðà Nẵng đã sẵn sàng trên phi đạo nhưng không được lệnh
cất cánh từ cấp cao để yểm trợ cho Hải Quân vì có thể là e ngại sẽ châm
ngòi cho một cuộc chiến mới , hoặc chỉ hạn chế trận chiến tới mức có thể
chấp nhận được trong một thế chính trị .
Một lần nữa , giả dụ rằng ta cứ để Trung Cộng có
mặt trên đảo Quang Hoà , trận hải chiến đã không xẩy ra thì chúng ta vẫn
có thể tiếp tục hiện diện trên đảo Hoàng Sa , tuy nhiên có thể phải trải
thêm quân trên các đảo Cam Tuyền , Vĩnh Lạc và Duy Mộng , để tránh sự
lấn chiếm , cộng thêm là Hải Quân Việt Nam phải thường xuyên tuần tiễu
với một Hải Đoàn tương đối mạnh . Nhưng dần dà họ cũng sẽ lấn chiếm theo
kế hoạch bành trướng thế lực của họ trong vùng Ðông Nam Á . Có thể Trung
Cộng đã trả đũa hay dập theo khuôn mẫu Việt Nam Cộng Hoà khi ta đã đặt
quân trú phòng trên đảo Nam Yết và Sơn Ca nằm phía Nam và Đông cùng trên
một vòng đai san hô với đảo Thái Bình , đã bị Trung Hoa Dân Quốc ( Ðài
Loan ) chiếm đóng từ khi Nhật Bản thua trận đệ nhị thế chiến . Người
Trung Hoa dù là lục địa hay hải đảo , đã từng nhiều lần tuyên bố là lãnh
thổ của họ , không những vùng này mà thôi mà cả toàn vùng Hoàng Sa
Trường Sa . Phải thành khẩn mà nhận rằng , khi Việt Nam Cộng Hoà đặt
quân trú phòng trên các đảo còn bỏ trống trong vùng Trường Sa như Nam
Yết , Sơn Ca , Song Tử Đông , Song Tử Tây , Trường Sa ... chúng ta đã
không gặp một hành động đối kháng về quân sự nào từ phía Trung Hoa Dân
Quốc hoặc Phi Luạt Tân hay Mã Lai Á .
Một suy luận nữa là có thể trận hải chiến là một
cuộc điều chỉnh sự nhường quyền chiếm giữ từ một nhược tiểu đến một
cường quốc theo một chiến lược hoàn cầu mà vài cường quốc đã ngầm thoả
thuận trước . Chúng ta có thể nhớ lại cuộc tấn công hùng hậu của Anh
Quốc trong cuộc tranh chấp đảo Falkland ( Nam Mỹ Châu ) vào thập niên
80 , mà Á căn đình ( Argentina ) vẫn luôn coi như lãnh thổ của họ . Họ
đã chiến đấu mạnh mẽ trên mặt ngoại giao và buộc phải chiến đấu trên mặt
quân sự sau khi ngoại giao thất bại . Về mặt quân sự , họ biết trước là
khó chống lại Anh Quốc với lực lượng khá dồi dào , nhưng họ đã phải
chiến đấu trong khả năng của họ , họ biết tự kiềm chế cường độ chiến
tranh để giảm thiểu tổn thất . Kết quả là đảo Falkland đã về tay Anh
Quốc . Tuy đảo Falkland rộng lớn hơn về diện tích và nguồn lợi cũng như
dân số , quân lực hai đối thủ đưa vào cuộc đụng độ hùng hậu hơn , mức độ
chiến tranh nặng hơn , nhưng hai trận Falkland và
Hoàng Sa đã gần tương tự nhau về tính chất của một
cuộc chiến .
Người Pháp , trong chiến tranh tại Ðông Dương sau
1945 , vì chiến cuộc gia tăng tại nội địa , đã phải bỏ ngỏ hoàn toàn
nhóm đảo Tuyên đức phía Bắc , và bỏ ngỏ nhóm Nguyệt Thiềm phía Nam trong
vài năm . Riêng nhóm Tuyên Đức phía Bắc đã do Trung Hoa Dân Quốc cưỡng
chiếm trong ít lâu , nhưng sau đó họ đã phải rút về vì sự thất trận của
họ trong lục địa . Về sau , hiệp định Ba Lê 1954 lại đề ra khu phi quân
sự dọc theo vĩ tuyến 17 , đã làm cho Việt Nam Cộng Hoà đã không thể tích
cực hiện diện tại nhóm Tuyên Ðức Bắc đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Nguyệt
Thiềm .
Xét về sự phòng thủ , so sánh với đảo Thái Bình
trong vùng Trường Sa thì thế bố trí trên đảo Hoàng Sa của VNCH đã thua
kém rất xa , và không thể đủ sức để cố thủ chống lại một cuộc cường kích
thuỷ bộ . Trên đảo không có công sự nặng , chỉ có khoảng một trung đội
địa phương quân với vũ khí cá nhân và một vài quan sát viên khí tượng .
Trong khi đó Ðảo Thái Bình , khi Nhật chiếm đóng trong đệ nhị thế
chiến , họ đã xây cất nhiều công sự nặng . Sau này khi Trung Hoa Dân
Quốc ( Ðài Loan ) chiếm đóng , chắc chắn họ đã tăng cường mọi cơ cấu
phòng thủ , lại có trang bị các khẩu đại pháo chống chiến hạm , đưa quân
số trú phòng có thể tới cấp hơn tiểu đoàn và do một vị Ðại Tá Thuỷ Quân
Lục Chiến chỉ huy .
Ngoài ra việc tuyên bố chủ quyền của Trung Cộng
trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được nhận xét chỉ diễn ra sau
cuộc thăm viếng Trung Cộng của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Kissinger . Ít nhất
là Hoa Kỳ và Trung Cộng đã ngầm có nhiều thoả thuận về chiến lược hay ít
nhất cũng đồng ý là Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào các hành động của
Trung Cộng trong vùng . Ðối với Việt Nam Cộng Hoà , Hoa Kỳ đã không muốn
can dự vào sự bảo vệ lãnh thổ . Trong ngày hải chiến thì các đối tác
viên tại Bộ Tổng Tham mưu đã khẳng định đó là công chuyện riêng của Việt
Nam .
Quan niệm của Hoa Kỳ trong việc mở rộng lưc lượng
Hải Quân chỉ là vừa đủ để hành quân yểm trợ hoả lực và ngăn chặn trong
vùng sông ngòi và duyên hải mà thôi . Cộng cuộc xây cất một hệ thống
thám báo liên tục từ Bến Hải đến Vịnh Thái Lan là một công tác cao , cả
về kỹ thuật lẫn tài chánh với mục tiêu duy nhất là kiểm soát hữu hiệu sự
xâm nhập lén lút bằng đường biển của Cộng Sản Bắc Việt vào vùng duyên
hải . Việc viện trợ hai chiếc Khu Trục Hạm , vì là loại tấn công , nên
sau 1973 họ đã nhiều lần đòi tháo gỡ máy dò tiềm thuỷ đĩnh như đã trình
bầy , làm như vậy là sẽ giảm khả năng của loại này một nửa . Vũ khí tấn
công trên mặt biển và trên không của Khu Trục Hạm là hai dàn hải pháo 76
ly tự động với nhịp tác xạ khoảng 60 viên một phút . Với hoả lực tấn
công mạnh mẽ như vậy , Hải Quân Hoa Kỳ , vào những năm cuối của cuộc
chiến , song song với kế hoạch rút lui , đã không bỏ sót cơ hội cắt đứt
hay ít nhất cũng trì hoãn việc tiếp tế cơ phận thay thế cho loại hải
pháo tối tân này .
Sau trận hải chiến , để nêu gương hy sinh của các
chiến sĩ bỏ mình trên đại dương , Bộ Tư Lệnh HQ đã có nghiên cứu một
kiến trúc dự định xin phép Ðô Thành Sài Gòn Chợ Lớn xây cất trong khu
vực cột cờ Thủ Ngữ bên sông Sài Gòn . Riêng Hội Đồng Ðô Thành đã đồng ý
trên nguyên tắc là sẽ có một đường phố mang tên Nguỵ Văn Thà . Một buổi
lễ kỷ niệm lần thứ nhất trận hải chiến Hoàng Sa đã được tổ chức vào ngày
19/01/1975 do Tư Lệnh Hải Quân , Ðề Ðốc Lâm Ngươn Tánh chủ toạ nhưng tôi
không được thông báo để đến tham dự .
Hàng năm cứ mỗi Tết Nguyên Đán đến , dù vào Tháng
Giêng hay không , tôi luôn luôn có ít phút tưởng niệm dành cho các liệt
sĩ đã hy sinh và cũng tưởng nhớ tới chiến sĩ đã anh dũng cùng tôi chiến
đấu trong trận hải chiến Hoàng Sa , mà số đông đang lưu lạc trong vùng
đất tự do . Họ là những anh hùng đã xả thân để bảo vệ lãnh thổ của tiền
nhân xây dựng từ bao thế kỷ . Mong rằng tài liệu này sẽ mang lại niềm
hãnh diện cho toàn thể các chiến sĩ Hải Quân đã tham dự trận đánh mà tôi
đã có vinh dự chỉ huy .
Hà Văn Ngạc , Dallas , Texas , Xuân Kỷ Mão (
2009 )