Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013


V/v Tiền viện trợ tìm kiến thi hài tử sῖ bộ đội Bắc Việt và tử sῖ VNCH

Kính thưa quý cơ quan truyền thông báo chí:

Trong lúc tưởng niệm ngày Quốc hận 30/04 hằng năm, chúng ta không thể quên hướng về Nghῖa Trang Quȃn Ɖội Biên Hoà (NTQƉBH) trong đổ nát và thê thảm bởi cộng sản Việt Nam tìm cách phá hoại khu đất thiêng liêng này bằng cách trồng cȃy kỹ nghệ và cắm cọc để làm công trình.

Trong những bài sưu tập vừa qua trên các cơ quan truyền thông như RFA, VOA và BBC mà chúng tôi truy tìm trở lại vào năm 2011 đến nay, đã có nhiều chi tiết xác thực cho thấy khoảng cuối năm 2010 đã có những thương thảo giữa USAID và cùng Bộ Thuơng BInh Xã Hội Việt Nam (cộng sản) đi đến ký kết mội biên bản ghi nhớ (memorandum) về việc Hoa Kỳ viện trợ một khoản tiền lên đến 1 triệu đô la cho Việt Nam nhằm 'tìm kiếm và nhận dạng' quân nhân Việt Nam mất tích trong chiến tranh và cung cấp một triệu đôla trợ giúp kỹ thuật, thời gian này Ɖại sứ Mỹ tại Hà nội là Michael Michalak. Tuy nhiên, đến tháng 9, 2011 thì theo đề nghị của TNS Jim Webb yêu cầu USAID ngƯng viện trợ cho đến khi nào chính phủ Hà Nội chịu đưa các t sĩ của quân lực Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 vào danh sách tìm kiếm. Tuy nhiên, việc ngưng viện trợ này kéo dài trong bao lȃu hoặc được tiếp tục từ khi nào thì chúng ta không biết; chính vì thế, số tiền 1 triệu đô la ấy đã chi phí như thế nào và USAID đã giao cho Việt Nam (VC) là bao nhiêu thì không ai rõ.

Chúng ta còn nhớ là trong khoảng một năm trước đȃy (2012) đã có những email phát tán trên Internet về các vụ việc tìm kiếm thȃn nhȃn là tử sῖ VNCH, nhƯng thực tế đã không có một con số tử sῖ VNCH nào đáng kể được thực sự tìm thấy nên những phát tán tin tức đó chỉ nhằm một mục đích nào khác với sự từ thiện và nhȃn đạo thật sự lương tȃm con người.

Tháng 1, 2013 thì TNS Jim Webb không còn làm TNS nữa, nghῖa là nếu theo Memorandum này thì là đúng 2 năm kể từ (tháng 1 2011) khi USAID bắt đầu viện trợ cho Việt Nam. Và như thế nếu số tiền viện trợ ấy không có gì trở ngại thì việc viện trợ 1 triệu đôla ấy đã đuøc giao cho Vit Nam đầy đủ và vic vin tr coi như chm dt. Chúng ta có thể đặt ra câu hỏi là nếu khoảng tiền ấy công bằng cho tử sῖ của cả hai bên VC và VNCH thì từ hơn 2 năm qua, số tiền dành cho tử sῖ VNCH là bao nhiêu, do ai xử dụng và làm gì và được báo cáo cho ai.

Chúng ta cũng biết là thời gian tại chức của Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Sàigòn Lê Thành Ȃn là 3 năm, tháng 8 này Ông sẽ trở về nước Hoa Kỳ có nghῖa Ông nhậm chức tháng 8 năm 2010, nghῖa là trước khi USAID và Bộ Thương Binh Xã Hội VN ký kết Memorandum viện trợ 1 triệu đô la nên Ông TLS sẽ biết sự vụ viện trợ này.

Hơn bao giờ hết NTQƉBH cần được bảo vệ khỏi sự phá hoại. Chúng ta rất cần sự giúp đỡ của chính phủ Hoa Kỳ khi bảo quản NTQƉBH khỏi sự phá hoại. Chính phủ Hoa Kỳ cần phải có sự công bằng trong việc viện trợ cho cộng sản VN lẫn công đồng người Việt tại Hoa Kỳ để chúng ta có thể duy trì NTQƉBH trong tình trạng tốt. Ngoài ra, phần lớn người Việt tại Hoa Kỳ là công dȃn Hoa kỳ, chúng ta đã xȃy dựng sự phồn vinh cho đất nuớc Hoa Kỳ, chúng ta có con em hy sinh trên các chiến trường Iraq, Afghanistan để bảo vệ danh dự và quyền lợi của Hoa Kỳ, chúng ta đóng góp nhiều thiết thực hữu ích cho xã hội và trên hết chúng ta đã đóng thuế, thực hiện quyền công dȃn bầu chọn hành pháp Hoa Kỳ, và vì thế chúng ta có thể yêu cầu Quốc Hội hay Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ giãi thích sự mất công bằng đó. Chúng ta tin rằng Quốc Hội Hoa Kỳ sẽ lắng nghe chúng ta và giúp đỡ chúng ta bảo vệ được NTQƉBH khỏi bị phá hoại.

Tháng 8 2013, Ông TLS Lê Thành Ȃn sẽ về nước, Ông sẽ trở lại bang Virginia (cùng bang với Ông Jim Webb) chúng tôi kính mong quý cơ quan truyền thông báo chí có dịp interview Ông bởi vì Ông sẽ trình bày những vụ việc xãy ra về khoản tiền viện trợ và vụ việc NTQƉBH trước Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Trong tình hình NTQƉBH bị phá hoại như hiện nay qua việc trồng cȃy kỹ nghệ và cộng sản Việt Nam đe doạ san lấp các khu mộ để làm mặt bằng, chúng ta cũng nên có những lá thƯ gửi đến văn phòng Ông để Ông rõ. Chúng ta mong rng Ông s hiu rõ, thông cảm và chia xẻ vi chúng ta nhng lo lng v NTQƉBH.

Việc bảo vệ NTQƉBH cũng đòi hỏi người dȃn Dῖ An giao nộp lại bức tượng Thương Tiếc, mà họ đã đánh sập, dấu diếm và lôi đi mất tích. Dῖ An là một huyện đẹp, nằm bên cạnh đường rail xe lửa, nhiều ruộng lúa xanh mướt, và các nhà dȃn trồng nhiều mít và thanh long, một huyện yên ả nằm giữa quốc lộ đi Bình Dương và bên kia là Lái Thiêu băng qua căn cứ Sóng Thần của Thủy Quȃn Lục Chiến VNCH, chính vì thế người dȃn Dῖ An sống thanh bình, hiền hậu và rất hiếu khách và trong vòng tay che chở ấm áp của quȃn lực VNCH. Người dȃn Dῖ An nên hiểu biết và tri ȃn người lính VNCH đã nằm xuống vì bảo vệ họ, chứ không phải những bộ đội cán binh cộng sản bảo vệ họ. Cho nên người dȃn Dῖ An cần phải sống cho hợp đạo nghῖa, bằng không sẽ mãi mãi nhơ uế địa danh Dῖ An. Ɖất Việt có địa linh, nhȃn kiệt, giàu đẹp với thắng cảnh và đạo đức, chúng tôi tin rằng người dȃn huyện Dῖ An sớm hiểu được cái nhȃn cách, đạo đức và tri ȃn những người lính VNCH đã chết để bảo vệ họ có một cuộc sống bình yên giàu có và hạnh phúc mà ngày nay họ không sao tìm li được.

Trȃn trng,

Hoàng Hoa

Mỹ ngưng viện trợ Việt Nam tìm kiếm hài cốt liệt sĩ




 
Thượng nghị sĩ Jim Webb, Chủ tịch Tiểu ban Đông Á -Thái Bình Dương, nhấn mạnh Quốc hội Mỹ dành 1 triệu đô la tài trợ cho công tác tìm kiếm hài cốt của quân nhân cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam

CỠ CHỮ- +

Cập nhật: 29.09.2011 20:00
Một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ loan báo Bộ Ngoại giao Mỹ đồng ý ngưng tài trợ dự án tìm kiếm các binh sĩ Việt Nam bị mất tích trong cuộc chiến Việt Nam cho tới khi nào chính phủ Hà Nội chịu đưa các liệt sĩ của quân lực Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 vào danh sách tìm kiếm.

Trong thông cáo mới đây, Thượng nghị sĩ Jim Webb, Chủ tịch Tiểu ban Đông Á-Thái Bình Dương, nhấn mạnh Quốc hội Mỹ dành 1 triệu đô la tài trợ cho công tác tìm kiếm hài cốt của quân nhân cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam.

Tuy nhiên, đơn vị quản lý dự án là Cơ quan Phát triển Quốc tế của Hoa Kỳ (USAID) cho biết có chỉ dấu cho thấy chính phủ Hà Nội không dùng khoản tiền trong dự án do Mỹ tài trợ này để tìm kiếm các liệt sĩ trong quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Tuần rồi, chính Thượng nghĩ sĩ Webb là người kêu gọi Cơ quan USAID ngưng dự án cho tới khi nào chính phủ Việt Nam đồng ý sử dụng tiền tài trợ để tìm kiếm liệt sĩ của cả quân đội Bắc Việt và quân lực Việt Nam Cộng hòa, theo đúng đúng mục tiêu công bằng và hòa giải dân tộc.


Thượng nghị sĩ Webb đặt nghi vấn về dự án tìm quân nhân mất tích ở VN
http://www.voatiengviet.com/content/webb-questions-backing-of-vietnamese-mia-project-9-23-11-130414683/910290.html


Thượng Nghị sĩ Webb nói theo những thông tin mà văn phòng ông có được thì các cuộc thảo luận giữa USAID và chính phủ VN cho thấy quân nhân VNCH không được VN tính là quân nhân mất tích và vì vậy không được đưa vào dự án
Ðường dẫn

CỠ CHỮ- +
Cập nhật: 22.09.2011 20:00

Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ Jim Webb muốn chính phủ liên bang Hoa Kỳ ngưng tài trợ cho một dự án nhằm xác định và tìm kiếm những quân nhân mất tích ở Việt Nam bởi lo ngại rằng hoạt động này chỉ tập trung vào việc tìm kiếm những binh sĩ tử trận đã chiến đấu chống lại Hoa Kỳ.

Hồi cuối năm ngoái, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, USAID, cùng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam đã ký kết một biên bản ghi nhớ
trong đó Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ Việt Nam 'tìm kiếm và nhận dạng' quân nhân Việt Nam mất tích trong chiến tranh và cung cấp một triệu đôla trợ giúp kỹ thuật.

Tại buổi lễ ký kết Đại sứ Hoa Kỳ khi đó là ông
Michael Michalak được trích lời nói rằng “qua việc cung cấp trợ giúp với chương trình này của USAID, Hoa Kỳ muốn nâng cao năng lực khoa học của các cơ quan Việt Nam, nâng cao khả năng của các cán bộ Việt Nam trong việc tìm kiếm, nhận dạng và lập hồ sơ về các cá nhân là người Việt Nam mất tích.

Tuy nhiên, bản tin trên The Virginian-Pilot trích một công bố của Thượng Nghị sĩ Jim Webb cho biết theo những thông tin mà văn phòng ông có được thì các cuộc thảo luận giữa USAID và chính phủ Việt Nam cho thấy những quân nhân thuộc lực lượng Việt Nam Cộng hòa không được chính phủ Việt Nam tính là những quân nhân mất tích và vì vậy không được đưa vào dự án này.

Ông Webb đã đề nghị Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, USAID đình chỉ chương trình tài trợ trị giá 1 triệu đôla cho tới khi nào các giới chức của cơ quan đảm bảo được rằng số tiền này được dùng để xác định và tìm kiếm binh sĩ của cả quân đội miền Bắc Việt Nam cũng như lực lượng Việt Nam Cộng hòa.

Theo Thượng nghị sĩ Dân chủ đại diện bang Virgina, nếu Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ dự án này thì sự hỗ trợ đó chỉ được dành cho những binh sĩ bên phía Cộng sản, và điều đó không phải là điều đem lại sự công bằng, công lý và hòa giải dân tộc.

Khi được hỏi về đề nghị của ông Webb, một người phát ngôn của USAID nói với The Virginian-Pilot rằng cơ quan này
cam kết thực hiện quá trình nhận dạng và tìm kiếm thi thể của các quân nhân của cả hai phía của cuộc chiến để giúp cho hàng triệu gia đình Việt Nam tới giờ vẫn không biết về số phận của những người thân yêu của họ.

Chính phủ Việt Nam cho hay họ muốn xác định danh tính và tìm kiếm khoảng 650.000 quân nhân Việt Nam đã được chôn cất tại các nghĩa trang của chính phủ hoặc vẫn còn mất tích.

Phía Việt Nam cũng đã trợ giúp Hoa Kỳ trong vấn đề tìm kiếm hàng ngàn quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh từ nhiều năm nay.

Nguồn: The Virginian-Pilot

 

Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2013

Ông Jim Webb nói về quan hệ Mỹ - Việt

Mở đầu loạt bài nhìn lại 35 năm Cuộc chiến Việt Nam và nhìn tới nhân dịp 15 năm Washington và Hà Nội thiết lập quan hệ ngoại giao tháng 7/1995-2010, BBC Tiếng Việt giới thiệu với quý vị cách nhìn của Thượng nghị sĩ Jim Webb.
Trả lời Phóng viên Hà Mi của BBC có mặt tại Washington DC, ông Jim Webb, người từng có thời gian phục vụ trong lực lượng Thủy quân Lục chiến của Quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam trước 1975, nhận định rằng đây là một mối quan hệ có lịch sử phức tạp:
TNS Jim Webb: Quan hệ giữa Hoa Kỳ và đất nước Việt Nam có lịch sử rất phức tạp. Chúng tôi đã làm việc rất tích cực từ năm 1975 để xây dựng một cầu nối mới giữa hai quốc gia và để bảo vệ những người Việt đã cùng chiến đấu với chúng tôi trong thời gian chiến tranh. Tôi đã dùng một thời gian đáng kể của cuộc đời mình để giải quyết những vấn đề này, từ khi tôi còn ở trong lực lượng Thủy quân lục chiến cách đây đã rất lâu và đặc biệt là từ năm 1991 khi tôi lần đầu tiên bắt đầu trở lại Việt Nam. Việc xây dựng đường hướng phát triển quan hệ giữa hai nước là một vấn đề phức tạp. Kể từ năm 1995, tôi cho rằng hai quốc gia đã thực hiện được nhiều việc có tính xây dựng. Việt Nam đã có những bước đi tới, như gia nhập Tổ chức mậu dịch thế giới, rồi hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ có những đối thoại chặt chẽ. Tôi cho rằng quan hệ Hoa Kỳ Việt Nam là một trong những mối quan hệ quan trọng nhất tại châu Á.
BBC: Theo ông thì cần làm gì để cho mối quan hệ giữa hai nước cải thiện hơn nữa?
Một trong những vấn đề mà tôi đã làm việc từ rất nhiều năm nay, bắt đầu từ cuối những năm 70s, đó là tìm cách thức cho phép những người Việt đã từng kề vai sát cánh với chúng tôi tái lập quan hệ với phía Việt Nam trong nước. Hiện nay có hai triệu người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ và rất nhiều gia đình đã phải trải qua những thời kỳ khó khăn sau năm 1975. Vì thế có tình trạng cay đắng, mất lòng tin từ cả hai phía và vì thế để hai bên đối thoại với nhau là một điều rất khó. Do vậy tôi đã dùng rất nhiều thời gian của mình trong rất nhiều năm qua nói chuyện và làm việc với cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ đồng thời bàn bạc với chính phủ Việt Nam và người Việt tại Việt Nam.
BBC: Chính phủ Việt Nam vẫn thường nói tới việc hòa hợp hòa giải và đó cũng là điều ông đã và đang cố gắng làm. Theo ông thì chính phủ Việt Nam đã làm gì để thực hiện được điều đó? Và còn cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ thì đã làm gì trong vấn đề này? ‎
Bạn cần mở JavaScript lên và cài phần mềm Flash Player mới nhất để nghe/xem.
Từ rất nhiều năm nay rất khó khởi sự các cuộc đối thoại như vậy vì cuộc chiến đã diễn ra khốc liệt ra sao và kéo dài như thế nào. Và trong những trường hợp như vậy thì họ cần một cầu nối, cần có khả năng để có thể được đưa tới bàn đối thoại. Và chính đó là điều tôi đã làm việc rất tích cực với cả hai phía, cố gắng khuyến khích đối thoại. Đó là một quá trình tiến triển khá chậm nhưng trong 3-4 năm qua tình hình đã khá hơn rất nhiều.
BBC: Ông nói tới cầu nối, vậy ông hình dung điều gì sẽ là cầu nối tốt nhất từ này trở đi?
Sự tôn trọng lẫn nhau, lòng tin, cả hai bên nhận ra những nguyên do chính đáng khiến có xung đột‎ này. Nhưng giờ đâyvới những ai quan tâm tới vận mệnh của Việt Nam, tới tương lai của Đông Nam Á thì điều quan trọng là phải đến với nhau. Tôi lấy một ví dụ nhỏ vẫn thường nói với bạn bè tại đây về chuyện tình hình đang khá hơn tại Việt Nam. Khi tôi trở lại Việt Nam vào năm 1991, tôi ở Hà Nội và đã đi lễ nhà thờ vào Chủ nhật dự lễ Phục sinh. Tôi thấy chỉ có khỏang 20 người tại Nhà thờ lớn Hà Nội và toàn là người già. Dịp Giáng Sinh vừa rồi tôi cùng vợ tới dự lễ tại Nhà thờ lớn ở Hà Nội và hôm đó có tới hơn 2000 người dự lễ. Điều đó cho thấy chính quyền đã chú ‎ý hơn tới các quyền cá nhân và chúng ta cần nhìn nhận điều đó để tiếp tục có đối thoại.
BBC: Tiếp nối câu trả lời của ông, nếu chính phủ Việt Nam đang cố gắng làm gì đó để cải thiện tình hình, thế phía cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ thì sao, họ vẫn tiếp tục biểu tình mỗi khi các quan chức cao cấp của Việt Nam tới thăm Hoa Kỳ. Liệu theo ông thì có thể làm gì?
Có những người đã bị tổn thương sâu sắc sau năm 1975 khi những người cộng sản nắm quyền kiểm soát tại miền Nam và rất nhiều người bị đi tù cải tạo, 240 ngàn người đã bị tù hơn 4 năm. Nếu một người đã từng làm việc cho Chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì người thân trong gia đình họ cũng bị phân biệt đối xử. Vì thế có những người đang sống tại đây vẫn còn những cảm xúc bị tổn thương đó. Và tại Việt Nam cũng có những người vẫn còn giữ những cảm xúc họ đã trải qua. Vì thế điều này cần tới thời gian và đó là thực tế. Nhưng khi tôi nhìn lại 19 năm qua kể từ khi tôi bắt đầu trở lại Việt Nam, tình hình đã khá hơn rất rất nhiều giữa cả hai phía.
BBC: Ông nhắc tới những người Việt đã từng là đồng minh của ông, vậy cũng xin hỏi ông về những người mất tích trong chiến tranh. Bên cạnh những người Mỹ mất tích vốn được chính phủ Mỹ lo tìm kiếm, thế còn những người Việt đã từng chiến đấu hay làm việc cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa, những người hiện vẫn còn bị coi mất tích, liệu họ có được sự trợ giúp nào của chính phủ Mỹ hay không?
Ông Jim Webb khi là Thủy quân lục chiến trong quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam
Tôi được biết có không chỉ một chương trình thực hiện việc trở lại Việt Nam, mà đây là trở lại các trại cải tạo sau khi chiến tranh kết thúc, để tìm kiếm những thi hài những người mất tích, theo hiểu biết của tôi. Với những người chiến đấu cho chính quyền miền Bắc, bộ đội, hiện vẫn còn hơn 300 ngàn người mất tích. Có các cách thức để tìm kiếm tất cả những người này. Vấn đề tù nhân chiến tranh và người mất tích trong chiến tranh tại Hoa Kỳ đã bị sử dụng vào mục đích chính trị, như một phần của chính cuộc chiến. Không hề có một danh sách những người bị bắt giữ và nhiều gia đình thậm chí cũng không biết người thân còn sống hay đã chết. Vì thế vấn đề này động chạm rất sâu sắc về mặt tình cảm tại Hoa Kỳ. Nhưng chúng tôi luôn sẵn lòng giúp tìm kiếm thi hài những người đã tham gia chiến đấu trong cuộc chiến từ tất cả mọi phía.
BBC: Ông có thể nói rõ hơn về chương trình tìm kiếm người Việt mất tích trong chiến tranh, tìm cả người miền Bắc và miền Nam?
Chương trình tìm kiếm những người Việt mất tích của phía miền Nam là những người bị chết trong các trại tù cải tạo sau khi cuộc chiến kết thúc và rất nhiều đồng đội của họ đang làm việc với chính phủ Việt Nam để tìm kiếm thi hài của họ. Vấn đề tìm kiếm bộ đội của miền Bắc là rất nhiều người bị chết tại chiến trường hay do máy bay bắn phá và không thể tìm được thi hài của họ và con số này là khỏang 300 ngàn người.
BBC: Trở lại quan hệ với Việt Nam và Hoa Kỳ, ông có cho rằng Việt Nam là một đồng minh quan trọng của Mỹ?
Có chứ (cười)
BBC:Trong bối cảnh quan hệ với Trung Quốc, một nước đang trở nên thống lĩnh tại châu Á. Liệu đó có phải là một điều chính phủ Mỹ tính tới?
Tôi vừa mới gặp gỡ các quan chức chính phủ Việt Nam và đã có những thảo luận với họ. Tôi cũng đã gặp họ nhiều lần trong suốt ba năm qua. Điều rất quan trọng là làm sao Việt Nam và Hoa Kỳ cùng làm việc với nhau bất kể khi nào có thể được. Có những vấn đề tại Biển Đông, những vấn đề rất quan trọng về chủ quyền, liên quan tới việc Trung Quốc nhận chủ quyền một số hòn đảo mà Việt Nam cũng nhận chủ quyền. Còn có một vấn đề rất quan trọng nữa theo quan điểm của tôi mà chúng ta cần làm việc với nhau, đó là vấn đề sông Mekong. Rất nhiều nhà máy thủy điện được xây dựng tại Trung Quốc dọc sông Mekong và lượng nước chảy xuống Việt Nam là rất đáng quan ngại. Có khoảng 70 triệu người sẽ bị ảnh hưởng trước tình trạng này. Và Việt Nam sẽ là nước phải chịu nguy cơ. Tự một mình Việt Nam không dám đối mặt với Trung Quốc về vấn đề này và Hoa Kỳ nên cùng các nước khác như Nhật Bản có thể tham gia, tìm cách để bảo đảm dòng sông Mekong được sử dụng công bằng.
BBC:Tục ngữ người Việt có câu “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, liệu Việt Nam có thể làm phật lòng nước láng giềng Trung Quốc khi đi với Mỹ và liệu Việt Nam có nên rút ra bài học từ cuộc chiến tranh Việt Nam khi tới một thời điểm nào đó, người Mỹ đã bỏ rơi đồng minh Nam Việt Nam. Ông có thể nói gì trước lập luận này?
Chúng tôi vẫn chưa bỏ đi. (Cười). Tôi nghĩ rằng Việt Nam từ rất nhiều thế kỷ đã có lòng quả cảm đứng lên bảo vệ lãnh thổ của mình trước nhiều cuộc xâm chiếm của Trung Quốc. Chúng ta không tìm cách tạo xung đột với Trung Quốc mà tìm kiếm sự cân bằng và Hoa Kỳ giúp đem lại sự cân bằng đó tại khu vực.
BBC:Sang vấn đề nhân quyền, có những khác biệt về cách nhìn nhận của Việt Nam và Hoa Kỳ về nhân quyền, liệu có thể thu hẹp những khác biệt giữa hai nước trong lĩnh vực này không, thưa ông?
Có, tôi tin là có thể. Quan tâm chính của tôi ngay từ đầu là việc đối xử công bằng với tất cả mọi người, bất kể người đó đã từng đứng về phía bên nào, hay gia đình họ thuộc phía bên nào trong thời gian chiến tranh. Điều số một là đối xử với mọi người một cách công bằng. Điều này đang diễn ra nhiều hơn, cách đây 20 năm thì đã không được như vậy. Trên phương diện các lĩnh vực khác thì tôi cho rằng chính phủ Việt Nam đã có những tiến bộ về tự do tôn giáo, mặc dù chưa phải là hoàn hảo, nhưng đã khá hơn rất nhiều so với trước đây. Tại châu Á, chúng tôi học được một điều là đón nhận những gì có được và xây dựng từ đó. Cách đó đã rất có hiệu quả trong việc xây dựng và phát triển sự tin cậy và tôn trọng giữa cả hai phía trong 19 năm qua.

Thượng nghị sỹ Jim Webb thăm Việt Nam

TNS Jim Webb
Ông Jim Webb là thượng nghị sỹ bang Virginia
Thượng nghị sỹ Dân chủ Mỹ Jim Webb sắp tới Việt Nam để tiếp tục vận động ngăn chặn tác hại của đập nước Xayaburi ở thượng nguồn sông Mekong.
Website của văn phòng Thượng nghị sỹ bang Virginia nói ông sẽ có chuyến công du tới Nam Hàn, Việt Nam, Nhật Bản và đảo Guam, kéo dài từ 16/04-29/04.
Tại Việt Nam, hiện chưa rõ chính thức là ngày nào, ông sẽ "đề cập vấn đề an ninh nước tại Đông Nam Á và tiếp tục vận động một cách tiếp cận đa phương nhằm ngăn chặn các hậu quả khủng khiếp mà các đập nước ở thượng nguồn sông Mekong có thể gây ra".
Các nước Thái Lan, Việt Nam, Campuchia và Lào sắp họp hôm thứ Ba 19/04 tại Vientiane để bàn cách xử lý với dự án đập nước Xayaburi mà Lào đang chuẩn bị xây dựng.
Tuy tuyên bố chính thức của các nước trên, đều là thành viên Ủy hội sông Mekong (MRC), chưa được đưa ra, có tinLào -ã xúc tiến chuẩn bị khởi công dự án thủy điện gây tranh cãi trị giá 3,5 tỷ đôla này.
Website của ông Webb nói: "Nếu hoàn tất, các đập ở thượng nguồn có thể thay đổi hoàn toàn dòng sông Mekong dài thứ 12 thế giới và gây đe dọa cho đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam".
Nghị sỹ Jim Webb là trưởng tiểu ban Đông Nam Á-Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện Hoa Kỳ.
Ông đã nhiều lần lên tiếng bày tỏ quan ngại về tác động tới môi trường của các dự án đập nước trên sông Mekong.
Năm nay 65 tuổi, Jim Webb từng tham chiến ở Việt Nam, có vợ người Việt và đã tới Việt Nam nhiều lần trong những năm gần đây với tư cách thượng nghị sỹ.
Tuy nhiên ông đã loan báo sẽ không ứng cử tiếp vào năm 2012.

Đập Xayaburi

Trong khi đó, bốn quốc gia ở vùng hạ nguồn sông Mekong sẽ phải sớm thống nhất xem họ có cùng đồng ý cho Lào khởi công xây dựng đập thủy điện Xayaburi hay không.
Trên sông Mekong
Việt Nam nằm ở hạ nguồn sông Mekong
Việc này sẽ là phép toán thử cơ chế hợp tác sông Mekong mà các nước cùng chia sẻ con sông này đã thỏa thuận. Lào, Campuchia, Việt Nam và Thái Lan năm 1995 đã ký một hiệp định chung để cùng quản lý dòng sông.
Cho tới giờ phút này, Lào - một trong bốn quốc gia nói trên, vẫn tỏ ra không thay đổi quan điểm.
Nhiều nguồn tin nói thực tế việc giải tỏa mặt bàng đã được bắt đầu từ tháng 11 năm ngoái tại nơi sẽ xây đập thủy điện.
Các nhân chứng nói tại khu vực này đã có mặt nhiều xe tải và hàng trăm công nhân.
Trung Quốc cũng đã xây bốn đập thủy điện tại thượng nguồn Mekong, nhưng mức độ ảnh hưởng của đập Xayaburi là chưa từng thấy vì nó sẽ thay đổi mạnh con đường di cư của các loài cá và gây hiệu ứng dây chuyền khiến các nước phía dưới cũng sẽ xúc tiến ít nhất 5 dự án đập nước của họ.
Cho tới gần đây, Vientiane vẫn khẳng định dự án Xayaburi là "thân thiện với môi trường" và không ảnh hưởng tới dòng chảy của sông Mekong.

Mỹ ngừng khoản tiền tìm hài cốt tử sĩ

Cập nhật: 09:39 GMT - thứ sáu, 30 tháng 9, 2011
Thượng Nghị sỹ Jim Webb
Ông Webb phản đối việc phân biệt đối xử giữa lính 'Việt Cộng' và Việt Nam Cộng hòa
Bộ Ngoại giao Mỹ tạm ngừng khoản chi 1 triệu đôla cho chương trình giúp tìm lính Việt Nam mất tích trong chiến tranh sau khi chính phủ ở Hà Nội từ chối tìm hài cốt lính Việt Nam Cộng Hòa.
Tin này được Thượng Nghị sỹ Jim Webb loan báo hôm 29/09 - ông từng là Thủy quân Lục chiến ở Việt Nam và thường xuyên thăm Việt Nam từ 1991.
Ông nói chương trình bị ngừng "cho đến khi chúng tôi có sự bảo đảm vững chắc rằng chương trình sẽ áp dụng bình đẳng cho những người từng chiến đấu cho mọi bên".
Hồi tuần trước, Thượng Nghị sỹ Jim Webb đã kêu gọi cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ - USAID - ngừng chương trình.
'Mục tiêu hòa giải'
Vị chủ tịch Ủy ban Đông Á và Thái Bình Dương của Thượng viện Mỹ nói trong một thông báo hôm 22/9:
"Việc thực hiện chương trình phải thể hiện sự tôn trọng như nhau đối với tất cả những người đã phục vụ trong quân ngũ và chết trong chiến tranh cũng như mang lại sự an ủi cho những người đã mất người thân yêu trong cuộc chiến lịch sử và thảm khốc."
"Chương trình hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam nhằm tìm kiếm hài cốt của những người lính Việt Nam có thể là cơ hội quý báu để thúc đẩy mục tiêu hòa giải - nhưng chỉ khi nó được thực hiện với sự tôn trọng đúng mực cho tất cả những người đã chiến đấu chứ không phải chỉ đối với một bên này, hay bên kia."
Thông báo của vị Thượng Nghị sỹ cũng nói một con số không xác định các tử sỹ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn chưa được xác định danh tính trong khi Nghĩa trang Bình An (trước đây là Biên Hòa) đang "trong tình trạng cực kỳ bỏ hoang và đổ nát".
Nghĩa trang Biên Hòa
Ông Webb nói Nghĩa trang Biên Hòa, nay là Bình An, đang ở trong tình trạng "cực kỳ hoang tàn và đổ nát"
Ông Webb cũng nhắc lại chuyện ông sẽ cố gắng để "khôi phục khu đất thiêng liêng" của nghĩa trang Biên Hòa "để bày tỏ sự tôn trọng những người lính đã ngã xuống trong chiến tranh.
Ông Jim Webb, người có vợ là bà Hong Le Webb, người miền Nam Việt Nam, nói: "Đây là điều quan trọng trong tinh thần hòa giải và đối với quan niệm trung thành và tôn trọng của người Mỹ rằng chúng ta không bao giờ quên những người đã ở bên chúng ta, ngay cả khi chúng ta bước vào tương lai và hợp tác với những người từng chiến đấu chống lại chúng ta."
Các chuyên gia nói Bấm Nghĩa trang Biên Hòa là "sáng kiến của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu" và hoàn thành năm 1966.
Hồi năm 2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có Bấm quyết định chuyển 58 ha khu đất nghĩa địa Bình An thuộc tỉnh Bình Dương, khi đó do Bộ Quốc phòng quản lý, sang sử dụng vào mục đích dân sự.
Đông đảo độc giả BBC khi đó đã có Bấm bình luận về quyết định này.
Những người tới thăm nghĩa trang gần đây nói các công trình xây dựng và nhà máy hiện bao quanh khu vực nghĩa trang.

'Không nên có điều kiện' khi tìm hài cốt

Cập nhật: 11:08 GMT - thứ sáu, 7 tháng 10, 2011
Chưa có thống kê về con số lính Việt Nam Cộng Hòa mất tích trong chiến tranh
Việt Nam nói không muốn bị đặt điều kiện trong chương trình tìm kiếm quân nhân mất tích thời kỳ chiến tranh đoạn thời chiến, mà Mỹ yêu cầu phải bao gồm việc tìm hài cốt lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Trả lời hãng tin AFP, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói "hợp tác nhân đạo phải đến từ tinh thần thiện chí, chân thành và vô điều kiện".
Ông Lương Thanh Nghị nói: “Việt Nam luôn luôn hợp tác vô điều kiện với Mỹ để đi tìm quân nhân Mỹ mất tích trong chiến cuộc."
Ông nói Hà Nội hy vọng hai bên sẽ làm việc “trong tinh thần đó” về vấn đề tìm kiếm quân nhân Việt Nam mất tích.
Tuần trước, Thượng nghị sỹ Jim Webb, chủ tịch Ủy ban Đông Á và Thái Bình Dương của Thượng viện Mỹ, cho hay chính phủ nước này ngưng khoản tài trợ trị giá một triệu đôla cho Việt Nam trừ phi Hà Nội cam kết sẽ tìm cả hài cốt quân nhân VNCH.
Nhưng Hà Nội nói họ chưa nhận được thông báo chính thức của Mỹ.
Hồi tháng Giêng 2011, Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội tuyên bố hai bên đã ký bản thỏa thuận kéo dài hai năm “hỗ trợ về mặt kỹ thuật để giúp Việt Nam tìm kiếm những quân nhân mất tích trong chiến tranh”.
Vết thương chiến tranh
Hiện tại, không có thống kê chính thức về con số mất tích của người phục vụ trong quân đội VNCH.
Việt Nam nói có khoảng 300.000 người thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam còn mất tích trong chiến tranh tính đến cuối tháng Tư 1975.
Nói chuyện với BBC hôm nay, ông Nguyễn Văn Hoành, người từng phục vụ trong quân đội miền Nam, cho biết ông cảm thấy may mắn khi người thân của ông không có ai trong danh sách mất tích.
Ông tâm sự: “Trong tình cảm riêng tư thì với những người đã mất, mình nên làm điều gì đó để họ được an ủi và thân nhân của họ cũng bớt đi phiền não. Trong trường hợp này, tôi thấy hơi buồn.”
Ông nói thêm: “Nhà nước nên có những điều thuận lợi hơn vì cùng là người Việt với nhau trong cuộc chiến vừa rồi, có lẽ ai cũng hiểu được nó như thế nào.”
Việc Việt Nam từ chối yêu cầu tìm hài cốt lính Việt Nam Cộng Hòa gây ngạc nhiên cho một số người trong bối cảnh Hà Nội cố gắng thu hút tình cảm của Việt kiều, mà nhiều người trong đó chạy khỏi Việt Nam sau 1975.
Việc con gái đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết hôn với một doanh nhân, con trai cựu quan chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa, từng được xem thể hiện dấu hiệu cởi mở của Đảng Cộng sản.
Bản tin của AFP nhận xét những người dính líu đến chính thể cũ do Mỹ ủng hộ ở miền Nam vẫn cảm thấy bị giới chức cộng sản hắt hủi.
 
Nghῖa Trang Quȃn Ɖội Biên Hòa vào những ngày đầu tháng 4, 2013


4, 5 ngày nay, 1 toán nhân viên của Giao Thông Vận Tải huyện Dĩ An (nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa tọa lạc theo địa danh hành chánh của chính quyền Hanoi hiện tại) đến vòng ngoài Nghĩa Trang cắm cọc "GPMB" (giải phóng mặt bằng).

- Họ cũng vào cả bên trong Nghĩa Trang, khu D3, cắm 1 loạt cọc như thế.

- Khoảng giữa 2 hàng cọc là 22 met. Toán nhân viên này cho hay, "nhà nước" sẽ làm 1 con đường đi từ phía ngoài xa lộ Saigon - Biên Hòa đâm vào trong đất Nghĩa Trang và xuyên qua Khu D3 để đi lên Bình Dương.








cọc "GPMB" vừa được cắm mấy ngày đầu tháng 4/2013 


hàng cọc đi xuyên qua Khu D3. Hàng chữ định vị ở dưới cùng bia mộ Trung Úy Nguyễn Văn Phấn: D3 / 1 / 31 





hàng cọc đi xuyên qua Khu D3




Nhận Định

Có thể đây chỉ là 1 "Dự Án", chưa xảy ra ngay vì nhiều lý do như thường thấy tại VN nhưng điều này chứng tỏ nhà nước CS Hanoi đã ngang nhiên coi thường nơi yên nghỉ của tử sỹ quốc gia VNCH. Họ ngang nhiên phóng đường xâm hại Nghĩa Trang, đâm xuyên qua phần đất Khu D3.

Nếu việc này không được báo động cho đồng bào hải ngoại biết kịp thời để các hội đoàn quốc gia hải ngoại nhanh chóng vận động mạnh bằng nhiều cách, tỉ như thông tin cho các thế lực dân cử Mỹ ủng hộ VNCH (như TNS Jim Webb chẳng hạn) thì chẳng ai dám chắc Hanoi có chùng tay hay không khi ngang nhiên phá hủy mộ phần chiến sĩ quốc gia để làm đường đi!!!

Càng chứng tỏ chính quyền CS hiện tại vẫn giữ nguyên 1 não trạng vô nhân đạo như xưa: không coi trọng Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa.

Đây là Nghĩa Trang chớ có phải là đất trống đâu mà họ ngang nhiên phóng đường đi rộng 22 met, không đếm xỉa gì tới phần mộ của bao người quá cố 40 năm qua??????

Người ta không thể không đặt câu hỏi: nếu một ngày mai đây, chế độ CS Hanoi bị sụp đổ, thì họ có nghĩ tới việc hàng hàng lớp lớp người từng là nạn nhân của các chính sách độc ác của họ 6, 7 chục năm qua xông vào phá tan Nghĩa trang Mai Dịch??? Việc đó hoàn toàn tùy thuộc vào những gì họ toan tính làm hôm nay!

Những ai quá dễ dãi và vội tin cái gọi là "nhân đạo" của CS hãy tự rút lại những gì đã tung hô vừa qua vẫn còn kịp!

LTC khấp báo từ Saigon

12/4/2013

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013


Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà

Nguyễn thị Thảo An
 

Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế hính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi. Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương. Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam. Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ. Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.


Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương. Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước. Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô. Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch. Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác,ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng. Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm. Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành lũy để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?


Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ? Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.


Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô. Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? ngày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù? Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính? Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu. Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng. Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam. Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.


Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy. Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm. Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian. Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng. Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:


Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)


Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh? Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ. Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh. Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh. Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.


Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà... Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai...


Nguyễn thị Thảo An

Những hình ảnh yêu quý trong QLVNCH .







Không biết những người lính trong những tấm hình này giờ ở đâu ?

Mong mọi điều bình an và may mắn đến với các anh.




Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

Thư gửi Ông Nguyễn Ɖạc Thành

Kính thưa quý cơ quan truyền thông báo chí, vụ việc Nghῖa Trang Quân Ɖội Biên Hoà có tính cách công chúng và liên quan đến toàn thể người Việt trong và ngoài nước. Vừa qua chúng tôi được biết có sự viện trợ nhȃn đạo mà chính phủ Hoa Kỳ dành cho các việc làm liên quan đến tử sῖ VNCH. Vì Ông Nguyễn Ɖạc Thành có những thời gian lưu trú tại Việt Nam và xuất hiện tại Nghῖa Trang Quȃn Ɖội Biên Hoà và phát biểu trên RFA rằng Ông là người làm công việc nhȃn đạo ấy nên chúng tôi buộc lòng có những cȃu hỏi cho Ông.
Xin gửi đến quý vị tường, và cũng xin quý vị ai biết email Ông xin gửi thư chúng tôi đến Ông càng sớm càng tốt.
Trȃn trọng,
Hoàng Hoa
Trưởng Ban Biên Tập Saigonfilms
04/17/2013
 
Tái bút: Thư được đăng tải và lưu trữ trên blog Quan Ɖiểm
 

--------------------------

Mạng Xã Hội Sàigon www.saigon films.com

PO Box 391063

Mountain View, Ca 94039


 

Subject: Tiền viện trợ nhȃn đạo chính phủ Hoa Kỳ giúp những việc liên quan đến tử sῖ VNCH đã đi về đȃu.

Thứ Tư 17/04/2013

Kính gửi Ông Nguyễn Ɖạc Thành:

Thưa Ông, chúng tôi là Hoàng Hoa trưởng Ban Biên Tập của Mạng Xã Hội Sàigòn, viết thư này gửi đến Ông để mong Ông sáng tỏ vài sự việc như sau:

Thưa Ông, chúng tôi được biết Ông vừa từ Việt Nam trở về và tại đó Ông có những việc làm liên quan đến tử sῖ VNCH, chúng tôi cũng được biết chính phủ Hoa Kỳ có viện trợ nhȃn đạo cho việc làm này, xin Ông vui lòng cho biết trong thời gian Ông ở Việt Nam Ông có nhận được khoản tiền nhȃn đạo này từ chính phủ Hoa Kỳ không? Nếu có thì là bao nhiêu? Số tiền ấy hiện do ai cất giữ? Trong suốt thời gian vừa qua chính phủ Hoa Kỳ đã viện trợ nhȃn đạo tất cả là bao nhiêu tiền cho Ông hay cho ai để làm những việc liên quan đến tử sῖ VNCH?

Vì thời giờ quá cấp bách cho dự án Nghῖa Trang Quȃn Ɖội Biên Hoà mà chúng tôi sẽ đệ trình lên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong nay mai trước ngày 30/04/2013. Chúng tôi sẽ không thể chờ đợi thư phúc đáp của Ông sau ngày 24/04/2013 được, vì thế nếu sau ngày ấy 24/04/2013 chúng tôi không nhận được thư Ông trả lời những cȃu hỏi nêu trên, chúng tôi sẽ buộc lòng có những ý kiến lên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mà ông không vừa ý. Khi đó là đã muộn.

Thư này được gửi đến các cơ quan truyền thông báo chí để tường vì tôi không có địa chỉ thư của Ông, nên khi Ông trả lời thư tôi, xin hãy gửi đi trên hệ thống truyền thông báo chí như vậy.

Trȃn trọng,

Hoàng Hoa

Trưởng Ban Biên Tập Saigonfilms

www.saigonfilms.com