Thứ Năm, 10 tháng 2, 2011

Dự Án giải phóng tù chính trị tại Việt Nam
Lời nói đầu
Chúng ta sắp bước vào Dự Án giải phóng tù chính trị tại Việt Nam, đây là một trận chiến chính trị đầy thử thách chế độ csvn bởi vì nó hoàn toàn khách hẳn với tất cả trận chiến chính trị mang nội dung ẩn dụ trước đây như Thỉnh Nguyện Thư gửi BNG Hoa Kỳ về Biển Đông của Việt Nam, Hồ sơ gửi Ủy Ban Luật Biển LHQ về Thềm Lục Địa giới hạn ngoài 350 hải lý của Việt Nam trên Biển Đông, Thư Cám ơn Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Clinton về tuyên bố của bà vào tháng 10, 2010 giúp cứu mạng ngư dân vô tội Việt Nam, Thỉnh Nguyện Thư phản đối Trung Cộng bắn giết ngư dân Việt Nam, Thỉnh Nguyện Thư gửi BNG Hoa Kỳ về việc chống khai thác bô xít tại Tây Nguyên, giờ đây chúng ta sắp bước vào một trận chiến mới, cụ thể hơn, thực tiển hơn, thuyết phục hơn và dĩ nhiên phù hợp vớicông cuộc giải thoát 80 triệu dân Việt đang đau khổ.
Chúng ta sẽ triển khai Dự Án giải phóng tù chính trị tại Việt Nam quan trọng này không ngừng nghỉ, không mệt mõi và nhất định chiến thắng.

An injured young opposition supporter waves a flag

REFILE - ADDITIONAL CAPTION INFORMATION An injured young opposition supporter waves a flag in Tahrir Square in Cairo February 10, 2011. Egyptian PresidentHosni Mubarak is on the verge of capitulating to protester demands to give up power but may still seek to hold on in a nominal capacity by giving presidential powers to his deputy or a joint leadership involving an army council.« Read less
REUTERS/Yannis Behrakis (EGYPT - Tags: CIVIL UNREST POLITICS)

Thứ Tư, 9 tháng 2, 2011

 

Nguyễn Ngọc Quang
Đồng nai Ngày 22/06/2010
   Bê tông cốt sắt bốn bức tường      
Trói chăng chỉ được xác vô thường 
Hồn ta đã hòa theo hồn Nước         
Mưu tự do thực cho Quê Hương     

Nguyễn Anh Hảo: Nay ra tù rồi dù thể xác già nua, nhưng tinh thần vẫn trẻ trung như 20 tuổi, không để lung lay ý chí chiến đấu


Tôi may mắn được biết anh Nguyễn Anh Hảo trong vài ba tháng trước khi tôi mãn án tại K2, trại giam Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai. Khi mà trại giam dồn những anh em tù nhân chính trị của K3 và K2 lại giam chung với nhau tại khu giam riêng K2 vào ngày 20/06/2009. Trước đây, khi trả lời phỏng vấn một phóng viên của DCVOnline.com, tôi đã nói : “Được sống chung với những người này trong môi trường tù, tôi mới thấy được cái quý giá ở họ. Thật diễm phúc khi trong đời được một lần sống chung với những người con hiếu thảo của Mẹ Việt Nam. Tôi thật tự hào về họ. Tôi yêu quý và trân trọng tất cả vì sự hy sinh của họ và vì ý chí kiên cường của họ.”.


Anh Nguyễn Anh Hảo sinh ra trong một gia đình Ki-Tô Giáo năm 1938 tại B’Lao. Bố mẹ anh di cư vào B’Lao vào những năm 30s của thế kỷ 20, theo chương trình mộ phu cao su của người Pháp. Đã bước vào tuổi “cổ lai hy”, cộng thêm hơn 22 năm tù đày trong ngục tù Cộng Sản. Trí nhớ của anh cũng có phần giảm sút. Anh cho biết năm 1966, anh tham gia lớp huấn luyện Khóa 3 - Sỹ Quan Đặc Biệt tại Thủ Đức. Số quân : 62/151657. Sau khi tốt nghiệp, anh được phong quân hàm Đại Úy và được điều động về tiểu khu Phong Dinh – Cần Thơ, giữ chức đại đội trưởng đại đội 657 Địa Phương Quân. Năm 1970, anh được thăng quân hàm Trung Úy và chuyển về B’Lao. Đầu năm 1975, anh Hảo được đi học lớp Bộ binh Cao Cấp tại căn cứ Thái Lan (thuộc Long Thành – Đồng nai ngày nay) ba tháng rưỡi. Sau đó được phong quân hàm Đại Úy và giữ chức vụ trưởng Ban 3, kiêm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 469 (hoặc 279 – anh cũng không còn nhờ rõ), đóng tại Tam Bố, Di Linh, KBC : 4409.

Như bao số phận Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa khác. Sau ngày 30/04/1975, anh bị tập trung “cải tạo” qua nhiều trại, từ Minh Rồng - Tân Rai, Lâm Đồng đến Sông Mao, Tà Dông và Hàm Trí phan Thiết. Ngày 10/11/1977 anh cùng ba đồng đội vượt ngục về Di Linh : Đại Úy Hiển, đại đội trưởng Đại Đội chiến Tranh Chính Trị tiểu khu Lâm Đồng; Đại Úy Tam, Chi khu phó chi khu Di Linh và Đại Úy Hoàng Văn Bản, đại đội trưởng Đại Đội Trinh Sát, sư đoàn 23. Trong chuyến vượt ngục ngày, Đại Úy Tam bị bắn trọng thương và được anh cùng đồng đội dìu đi trên đường đào tẩu. Năm 1978, anh Hảo tham gia tổ chức võ trang Việt Vương Phục Quốc, tại Cần thơ. Sau khi bị lộ, một số thành viên của tổ chức đã bị bắt – trong đó có anh Nguyễn Anh Hảo. Đầu năm 1980, sau khi bị nhốt gần hai năm, anh Nguyễn Anh Hảo được thả ra. Khoảng tháng 02/1981, anh Hảo tìm đường qua Cambodia, tiếp tục hành trình tìm đường đấu tranh giành lại Tự Do – Dân Chủ cho bản thân, gia đình và Dân Tộc. Xin lưu ý rằng, trong thời điểm này, từ Cambodia vượt biên qua Thailand không đến nỗi khó đối với những con người gan dạ và mưu trí như anh Hảo. Nhiều người đã khuyên anh nên qua Thailand để xin tỵ nạn Cộng Sản tại một đệ tam quốc gia, nhưng anh Hảo đã nhất mực từ chối bởi trăn trở về những số phận người dân miền Nam đang còn đọa đày dưới sự cai trị hà khắc của nhà cầm quyền Hà Nội thời đó. Nghiệp tù đày như vận vào những con người yêu nước chân chính nhưng sanh bất phùng thời. Đầu năm 1985, anh bị bặt và nhốt tại Battambang, Một năm sau, ngày 16/01/1986, anh bị đưa về Việt Nam nhốt tại B34, sau đó di lý về Lâm Đồng Thẩm vấn. Không hề được xét xử, anh Hao bị đưa vào nhốt tại trại giam Đại Bình, Lâm Đồng. Dù bị bắt vào đầu năm 1985, nhưng trong giấy ra trại, nhà nước CSVN dựa vào ngày chúng đưa anh về Việt Nam là ngày 16/01/1986 để tính. Mời quý vị xem qua giấy ra trại của anh Hảo :



Trong Giấy Ra Trại ghi rõ :


Can tội : Trối trại trốn đi nước ngoài

Bị bắt : 16/1/86 Án phạt : TTGDCT ( Tập trung giáo dục cải tạo ). Điều đó có nghĩa là muốn giam bao nhiêu tùy thích ! Quý vị có thể cho tôi biết, trên thế giới này, vào những năm cuối của thập niên 80s, có nước nào có luật pháp rừng rú như ở Việt Nam không ?

Sau khi được thả ra vào ngày 04/02/1989. Anh trở về Lộc Sơn sống cùng gia đình được một năm. Chí nam nhi cộng với trách nhiệm và danh dự với Tổ Quốc của người sĩ quan Quân Lưc Việt Nam Cộng Hòa thôi thúc. Đầu năm 1990, anh lại tìm đường qua Cambodia tìm những tổ chức kháng chiến võ trang phục quốc. Sau một thời gian dài gạn lọc, chọn lựa. Đến giữa năm 1995, anh tham gia đảng Nhân Dân Hành Động do ông Nguyễn Sỹ Bình khởi xướng. Vì trong tổ chức, đã bị đặc tình CS cài vào, cho nên ngày 17/07/1997, anh bị bắt ở cửa khẩu Mộc bài – Tây Ninh, khi nhận nhiệm vụ xâm nhập về Việt Nam hoạt động. Sau khi bị bắt, anh bị đưa về nhốt ở trại giam B34 – Bộ Công An, rồi sau đó lại chuyển qua Chí Hòa. Sau khi ra tòa, anh bị giải về thi hành án tại trại giam Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai. Mời quý vị xem qua Giấy Chứng Nhận Phạm Nhân Chấp hành Xong Án Phạt Tù của anh :

Khi hỏi anh có kỷ niệm nào đáng nhớ trong thời gian anh bị nhốt tại Chí Hòa không ? Anh cười mà kể rằng : Trong thời gian bị nhốt ở Chí Hòa, anh bị nhốt chung với một “tên” cướp xuyên Đông Dương tên Lắm. Với cách nhốt như thế này, mục đích của công an là muốn sữ dụng giang hồ để trấn áp anh. Khi ở chung với nhau, thì “tên” cướp này đã bị anh thu phục bằng lòng nhân ái và vị tha theo lời dạy của Đức Jê-Su. Sau khi đã thân và coi nhau như anh em, “tên” Lắm có một lần bộc trực nói : ‘ Anh ngu thấy mẹ ! Với cái lý lịch như anh sao không vượt biện cho xong. Anh mà vượt biên thì dễ không chứ có khó khăn gì ! Bây giờ thì rung đùi uống bia ở Mỹ rồi, ở lại làm đ.. gì để ở tù cho khổ cái thân !”. Anh cười mà hỏi rằng : ‘ Thế vì sao chú mày đi ăn cướp”. Lắm trả lời : “ Thì quá tức đi mà làm liều thôi chứ sao ! Tụi Đỏ nó áp bức mình quá ai mà chịu nổi. Em đi ăn cướp cũng do cái chế độ mất dạy này nó dồn em vào con đường cùng, đ… còn đất sống, chứ em có muốn đâu !”. Anh Hảo lại hỏi : “ Thế tại sao chú mày không chọn mấy gia đình Đỏ mà cướp, lại đi cướp cả người dân vô tội ?”. Lắm tự nhiên : “ Cũng có chứ, nhưng khi nào thấy chắc ăn mới cướp. Bọn Đỏ thằng nào mà chẳng có súng !”. Anh Hảo cười và ôn tồn bảo : “ Vậy chú mày có muốn xóa bỏ cái chế độ Cộng Sản này không ?, Nếu như nghĩ như chú mày, anh không về đây ngồi tù thì đến bao giờ chế độ Cộng Sản này nói sập được ? Sau này chú mày sẽ hiểu được việc của anh làm”. Khi nghe anh giải thích một cách hết sức đơn giản xong. Lắm đã đứng lên rồi từ từ quỳ xuống lạy anh một lạy. Và từ đó, câu nói ấy được “tên” cướp xuyên Đông Dương truyền từ phòng này đến phòng khác cho anh em giang hồ trong trại Chí Hòa. Sau này, khi bị chuyển về giam tại trại giam Z30A. Một sự trùng hợp là Lắm cũng bị đưa về đây. Khi ra lao động, tình cờ nhìn thấy anh Hảo. Lắm cũng quỳ xuống lạy anh một lạy và kêu to : “ Đại Úy !”.


Sau hơn 22 năm tù đày qua nhiều lao tù Cộng Sản. Đại Úy Nguyễn Anh Hảo đã trở thành một ông già với một thể xác tiều tụy với nhiều bệnh tật. Nhưng tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường của người sỹ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày nào vẫn hiện rõ qua đôi mắt tinh anh và nét mặt cương nghị.
Cô Nguyễn Thu Trâm đại diện các anh em tặng hoa chúc mừng anh Nguyễn Mạnh Hảo

Từ trái: Trần Văn Huy, Nguyễn Ngọc Quang, Nguyễn Anh Hào Nguyễn Thu Trâm và Nguyễn Bắc Truyển


Tiếp chúng tôi tại tư gia số 60, đường Trần Phú, khu phố 4, phường Lộc sơn, thị xã Bảo Lộc. Anh bày tỏ sự xúc động khi biết còn có những người anh em luôn nhớ đến anh. Anh vui mừng khi nghe chúng tôi kể cho nghe về các Phong Trào Dân Chủ đang lớn mạnh như thế nào trong những năm gần đây. Con đường của các anh đã được thế hệ sau tiếp bước theo một phương thức mới. Chúng tôi nói cho anh về những loại vũ khí mới. Đó là : Tình Yêu Tổ Quốc, lòng can đảm + điện thoại + computer + internet + bút. Những vũ khí không gây sát thương nhưng có sức công phá mãnh liệt, phù hợp với trào lưu Dân Chủ Hóa toàn cầu đầy nhân bản, và xu hướng vươn tới sự thánh thiện, giải phóng con người thoát khỏi chủ thuyết phi nhân Cộng Sản.


Qua thời gian ba năm trong tù, trong đó gần một năm may mắn được sống chung với những tiền bối khả kính trong các phong trào vũ trang trước đây như các anh Nguyễn Anh Hảo, Lê Văn Tính, Nguyễn Văn Trại, Trần Văn Thiêng, Đổ Văn Thái, Nguyễn Hữu Cầu, Đổ Thanh Nhàn, Phạm Xuân Thân, Nguyễn Thanh Vân, v.v…; và với những anh em trong những phong trào Dân Chủ như Phạm Bá Hải, Trần Quốc Hiền, Trương Quốc Huy, Nguyễn Bắc Truyễn, Lê Nguyên Sang, Trương Minh Đức v.v…tôi dám nói rằng, chính sách dùng cực hình để đè bẹp ý chí đấu tranh đối với những người con chân chính của Mẹ Việt Nam của Cộng Sản đã phá sản. Khi trong tim mang nặng một tình yêu chân chính, cao đẹp và trong sáng, thì người ta sẵn sàng chết cho Tình Yêu ấy ! Đó là một sự thật. Mong những người Cộng Sản hôm nay hãy nhìn thẳng vào sự thật này để chọn cho mình một vị trí thích hợp. Qua lịch sử hàng ngàn năm phát triển xã hội Nhân Loại đã chứng minh : Ác không bao giờ thắng được Thiện.

Xin các tiền bối hãy vững tin nơi lớp trẻ. Chúng em quyết tiếp bước quý tiền bối trên con đường nhân ái giải phóng con người.

 

Anh Nguyễn Anh Hảo, sinh năm 1938 tại Bảo Lộc. Năm 1968, anh là Thiếu úy - Đại đội trưởng Địa phương quân 657 (Tiểu khu Phong Dinh), đơn vị anh Hảo là đơn vị duy nhất đụng độ với quân đội Bắc Việt tại Cần Thơ vào Tết Mậu Thân (1968), theo lời anh kể thì quân đội Bắc Việt đã tấn công vào trường Đại học Cần Thơ vào đêm mùng 3 tết với lực lượng khoảng 1 tiểu đoàn, khi đó đơn vị anh đang đóng quân trong trường Đại học vừa xây dựng xong. Sau 5 tiếng cầm cự, Đại đội anh với 3 Trung đội phải rút lui ra khỏi trường Đại học Cần Thơ. Khoảng 10 giờ sáng hôm sau, với sự hỗ trợ của thiết vận xa M113, Không quân, các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến, lực lượng Địa phương quân của QL VNCH đã tái chiếm dễ dàng Đại học Cần Thơ. Tại hiện trường, có hơn 100 xác Cộng quân Bắc Việt xâm lược đã đền tội.

Trong một lần phát sóng của đài VTV của Cộng Sản Hà Nội vào dịp Tết năm 2010, đưa tin là quân đội Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã chiếm Cần Thơ trong 60 ngày (?) trong chiến dịch Tết Mậu Thân, với nụ cười của người trong cuộc, anh Sáu Hảo đã kể cho tôi nghe sự thật về trận chiến trên. Anh cũng kể rằng, trong các chiến dịch về Phong Điền, Phụng Hiệp anh đã nhiều lần đụng độ với tiểu đoàn Tây Đô của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tuy có trận thắng, có trận thua, nhưng nhìn chung xác cộng quân đền tội tại những trận đụng độ này bao giờ cũng nhiều hơn các chiến binh của QLVNCH đền nợ nước. Anh đã nhiều lần tha cho các cán binh Việt Cộng thay vì phải bắt chúng làm tù binh hay đền tội, khi đơn vị anh phát hiện họ cùng với vợ con lẫn trốn dưới hầm. Sau này, có một số những cán binh đó đã đền ơn cho anh bằng cách báo tin cho anh về các vụ mưu sát nhắm vào anh. Năm 1970, anh chuyển về Bảo Lộc, đóng quân tai Tam Bố (Bảo Lộc) cho đến tháng 4/1975, lúc đó anh là Đai úy - Phó Tiểu đòan Trưởng Địa Phương Quân.
Ở trại họ ép phải nhận tội. Nay ra tù rồi dù thể xác già nua, nhưng tinh thần vẫn trẻ trung như 20 tuổi, không để lung lay ý chí chiến đấu.




Sau khi cộng sản bắc Việt cưỡng chiếm Miền năm tháng Tư năm 1975, anh Hảo bị tập trung "học tập cải taọ" khoảng 2 năm, rồi anh , trốn trại, đào thoát sang nước láng giềng Cambodge, tham gia vào các lực lượng võ trang đấu tranh cho nền tự do nước nhà, anh bị bắt đi tù tu 1978 - 1980. Năm 1985, anh bi bắt tại Cambodge và đi tù đến năm 1990 vì tội danh vượt ngục năm 1977. Ngày 17/7/1997, anh bị bắt tại biên giới Việt Nam và Cambodge khi nhập cảnh vào Việt Nam, lúc đó anh là Chủ tịch Hội những người phát hiện và chống tham nhũng Việt Nam, một tổ chức được thành lập tại Cambodge Anh bị kết án 13 năm và thi hành án lệnh tại Nhà tù Xuân Lộc. Như vậy, tổng cộng thời gian tù đày dưới Nhà tù cộng sản, là gần 23 năm và đã lưu đày biệt xứ gần 35 năm.

Ngày 17/7/2010, anh Nguyễn Anh Hào đã rời nhà tù Xuân Lộc (Z30A) để trở về mái nhà xưa sau 13 năm thụ án, Mẹ anh đang chờ anh từng ngày, theo chị Thu Hươ'ng, vợ anh nói, mẹ anh đã già yếu, bà đã 98 tuổi nhưng suốt ngày chỉ mõi mắt trông con. Chị Hương sẽ đón vị anh hùng của mình tại nhà tù Xuân Lộc. Trong thời gian anh Hảo ở tù tại nhà tù Xuân Lộc, người lính già của QLVNCH này đã giúp đở rất nhiều anh em tù khó khăn, anh sống chan hòa với anh em mọi lứa tuổi và thương yêu mọi người theo tinh thần Kitô hữu và tinh thân huynh đẹ chi binh. Tình thần đấu tranh của anh rất vững vàng và kiên định, anh là tấm gương cho lớp người được gọi là trẻ như tôi. Chúc mừng cho Bác gái - Mẹ anh Hảo được gặp mặt lại người con trai duy nhất của mình, khi anh đi mái đầu xanh của anh giờ đây tóc đã bạc phơ như Mẹ. Chị nhà sẽ rất vui khi được nắm lấy tay anh và sẽ hạnh phúc trong thời gian tới, vì anh có tài nấu ăn rất ngon. Xin chúc mừng anh Nguyễn Anh Hảo trở về nhà, cùng với người tù bất khuất Trương văn Sương cả dân tộc Việt nam yêu chuộng tự do dân chủ, đặc biệt là cộng đồng người Việt Quốc Gia từ Quốc Nội cho đến Hải Ngoại đang hết sức hân hoan đón chào người con yêu của tổ quốc Việt nam tự do được trở lại quê nhà sau ngót 35 năm lưu đày xa xứ à bị đày đọa trong chốn ngục tù của cộng sản.

Trước đó, ngày 1/7/2010 anh Đinh Quang Hải, một chiến sỹ đấu tranh cho tự do cũng vừa ra tù từ Nhà tù nhỏ Xuân Lộc và đã trở lại với gia đình tại nhà tù lớn Việt nam tại Daklak sau 11 năm bị giam cầm và đày đọa trong chín tầng địa ngục của CSVN.

Là một cựu tù chính trị, cũng đã được nếm trãi nhiều năm trong cảnh đọa đày tù ngục và cũng đã hiểu được sâu hơn thế nào là cộng sản và thế nào là nhà tù cộng sản, xin cùng được cả cộng đồng người Việt Quốc Gia xin hân hoan chào đón người hùng Nguyễn Anh Hảo, một sỹ quan của QLVNCH, một chiến sỹ kiên cường bất khuất trong các nhà tù nhỏ của CS trở lại với nhà tù lớn Việt nam, với cộng đồng những người đang đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền cho quê hương.


Sài gòn, ngày 20 tháng 7 năm 2010.

Nguyễn Bắc Truyển (Cựu tù chính trị của nhà tù CS)
Nguyễn Bắc Truyển đến chúc mửng Trương Văn Sương vừa ra tù nhỏ

Buddhist Monks in Detention
I. The State versus the UBCV Buddhists
In 1993 several Buddhist monks of the banned Unified Buddhist Church of Viet Nam (UBCV) were arrested in central Viet Nam and in Vung Tau in south Viet Nam. The circumstances of their arrest evoked the confrontations between Buddhist monks and government authorities of the former Republic of (South) Viet Nam more than 30 years ago. The government claims that UBCV members in Viet Nam and abroad have been using religion to engage in political activities. Some members of the UBCV have denounced the Vietnamese authorities for banning the UBCV and for their failure to return church properties. The UBCV has resisted attempts by the government to force UBCV members to join the state-sponsored Vietnamese Buddhist Church (VBC).
The VBC was established in 1981 and became the only Buddhist organization to receive official recognition. Not all Buddhists, many of whom were active in the anti-war campaign before 1975, welcomed the government move to establish a single Buddhist organization. Some Buddhist monks including Thich Quang Do and Thich Huyen Quang, who have been under house arrest since 1982, criticized the authorities over alleged persecution, human rights violations, and state control over Buddhist institutions. Members and followers of the UBCV assert the right to belong to a religious group independent from the government. The UBCV was formed in 1951 and in the 1960s was prominent in the anti-war movement and campaigned for religious freedom under the Diem government in South Vietnam: the self-immolation of one of its members, Thich Quang Duc, on 11 June 1963 caused worldwide protest. The UBCV, which was banned in 1981, has long resisted efforts by the government to integrate it into the state-sponsored VBC.
At the end of 1989 a number of the Buddhist monks and nuns who had been sentenced to long prison terms after 1975 were released. However, several Buddhist monks, arrested between 1978 and 1993, are still in prison or under house arrest. Some of them have been accused of engaging in "activities aimed at overthrowing the people's government" and "disrupting public order". Amnesty International believes that some of the monks in detention are prisoners of conscience, detained solely for the peaceful exercise of their fundamental human rights, while others may have been convicted after unfair trials.
Under the Constitution of the Socialist Republic of Viet Nam, the rights to freedom of worship and religious practice are guaranteed. However, the Constitution also provides that "no one may misuse religion to violate state laws and policies". Government efforts to regulate religious activities and to "unify" religious groups have resulted in restrictions on the full exercise of these freedoms.
In November 1977, the Council of Ministers issued Resolution 297 which set out government policy regarding religions in Viet Nam. It announced measures designed to bring religious and cultural activities under the control of the state and the Communist Party by means of a comprehensive set of rules which included restrictions on religious services, religious education and the holding of religious gatherings and retreats. Resolution 297 gave the state power over the selection of clergymen to represent religious organizations in official bodies, and local government agencies were empowered to confiscate the property of religious groups. The government also established "mass organizations" to officially represent and regulate the public activities of religious communities. The most important of these is the Viet Nam Fatherland Front, which has the authority to prohibit any activities deemed to be contrary to the goal of
"building socialism". Resolution 297 resulted in some conflict within the membership of the various religious groupings and denominations in Viet Nam, including the Buddhist, the Catholic and the Protestant churches. Some within these religious communities did not accept in particular the state's authority to select without consultation their representatives to state-sponsored religious bodies such as the Viet Nam Buddhist Church (VBC) and the Committee for the Solidarity of Vietnamese Catholics. These state-selected religious officials have the right to represent religious groupings and denominations at various levels of the government.
Control over religious activity is exercised by government authorities at the national level and by local government agencies at the district level. These controls include the approval of candidates for ordination and enrolment in seminaries. In effect no one can practice openly as a clergyman or minister without such government approval.
With the introduction in 1986 of the doi moi (renovation) policy, the government relaxed its controls on the activities of religious groups in Viet Nam. However, in May 1991, the government passed a new decree on the regulation of religious activities in Viet Nam. It replaced Resolution 297 and applies to all religions practised in Viet Nam. The new law states that "any act which, posing as religion, attempts to sabotage national independence and go against the state will be punished according to the law". The new law stipulates that any nominations to religious office in Viet Nam, travel abroad by Vietnamese clerics and visits by representatives of foreign religious organizations to Viet Nam must be approved by the government. It also states that any religious meetings such as regional and national conferences as well as the opening of religious schools and seminaries require the approval of the government.
In December 1993 the government issued new guidelines concerning religious activities which reaffirmed the right of the government to approve candidate priests, monks and other religious officials citing the criteria for the choice of the candidates: "their good performance of their civic duties". It warned that those people "who exploit religion and commit violations with a perverse intention must be severely judged in conformity with the law. Those who slander or distort the truth will be heavily chastised". However, the guidelines also outlined steps to address the problem of ownership of certain churches including returning some of the pagodas and other places of worship which were "borrowed" or "offered" to the government for community use after the end of the Viet Nam war in 1975.
The Hué May 1993 arrests
On 21 May 1993 Dao Quang Ho, a 52 year old man from the south of Viet Nam, committed suicide by self-immolation at the Linh Mu (Thien Mu) Pagoda in Hué, one of the most hallowed Buddhist shrines in Viet Nam. Buddhist monks claimed that Dao Quang Ho was a devout Buddhist who had committed suicide as a symbolic gesture for religious freedom. However, the government authorities declared that Dao Quang Ho was driven to suicide by marital problems and was not a follower of a particular religion. The government authorities refused to allow a Buddhist funeral and asked the Abbot of Linh Mu Pagoda, Thich Tri Tuu, to come in for questioning about the suicide on 24 May. Street protests started soon after as members of the Linh Mu Pagoda feared that Thich Tri Tuu had in fact been arrested. There are contradictory reports about the demonstration. The authorities claim that Thich Tri Tuu and other monks incited the crowd to violence - a government car was overturned and set on fire and some policemen were injured by stones. Thich Tri Tuu acknowledged the violence of the crowd but said that it was in response to the army use of tear gas and water pipes and that the crowd soon became peaceful again when informed that he had returned to the pagoda. On 5 June four monks were arrested. Two of them, Thich Hai Tang and Thich Hai Thinh, were denied the right to keep their monastic robes.
Those arrested, Thich Tri Tuu, Thich Hai Tang, Thich Hai Chanh and Thich Hai Thinh, are all members of the UBCV. In 1992 after the death and funeral of the Patriarch of the UBCV, Thich Don Hau, they were often called for interrogation by the authorities which contested the validity of the previous Patriarch's testament designating Thich Huyen Quang as the new Patriarch of the UBCV.
In November 1993, the Thua Thien-Hué People's Court found the four monks and five other persons guilty of "disturbing public order", a criminal offence under Article 198 of the Vietnamese Criminal Code and sentenced them to three to four years' imprisonment. In December 1993 the Vietnamese government provided Amnesty International with an edited copy of a video film taken during the May 1993 Hué demonstration which showed that some of the monks involved in the demonstration may have engaged in disrupting public order in violation of Vietnamese criminal laws. Amnesty International is currently investigating whether or not the right to a fair trial of Thich Tri Tuu, Thich Hai Tang, Thich Hai Thinh and Thich Hai Chanh has been safeguarded by the Vietnamese authorities and whether or not some of them are prisoners of conscience.
The Son Linh Pagoda July 1993 arrests
In July 1993, two monks from the Son Linh Pagoda near Vung Tau City, Thich Han Duc and Thich Thien Tho, were arrested together with supporters of the monks who protested at Thich Han Duc's expulsion from the pagoda. According to a local newspaper Thich Hanh Duc was expelled from the Son Linh Pagoda in February 1993 for "publicising shameful documents opposing Vietnam's socialist regime". The newspaper added that he had organised an anti-government rally in early June 1993. On 9 July 1993 local residents gathered at the Son Linh pagoda to protest this decision and one source claims that government security forces attacked the pagoda in order to expel Thich Hanh Duc and his supporters, using tear gas in the process. However, the head of the government Religious Affairs Committee claimed that the supporters had started the conflict by taking a government official as hostage and that several officials were injured when the crowd showered them with rocks and sticks.
The UBCV later claimed that about 100 monks and their supporters were arrested during confrontations with government security forces on 9 July. Most of those arrested were immediately released except Thich Han Duc, Thich Thien Tho, and "four or five" of their supporters who were allegedly found to have an arms cache including five kilograms of explosives, sticks and knives. The UBCV maintains that the crowd had been non-violent and only threw stones to protect themselves and the monks in response to the attacks by the security forces. The security police, it alleges, attacked the crowd with tanks, tear gas grenades and by punching and beating some of the monks supporters. Thich Han Duc and Thich Thien Tho were tried in January 1994 and sentenced to three years' imprisonment and to 18 months' house arrest, respectively.
Amnesty International is currently investigating whether or not the right to a fair trial of Thich Han Duc and Thich Thien Tho has been safeguarded by the Vietnamese authorities and whether or not any of them are prisoners of conscience.
II. Buddhist monks restricted or in detention
Thich Huyen Quang
Thich Huyen Quang was recognized by the UBCV in Viet Nam and by his followers abroad as Patriarch of the UBCV after the death of Patriarch Thich Don Hau
Thich Huyen Quang at the funeral of Patriarch Thich Don Hau and inset in April 1992. He has been under house arrest since 1982. He was born in 1929 in Nghia Binh Province. In 1974 he became Executive Vice-President of the UBCV based in Ho Chi Minh City (formerly Saigon). Before 1975 he had been active in denouncing human rights abuses under the government of the Republic of (South) Viet Nam. In February 1982 he was arrested and subsequently banished to his native Quang Ngai Province. His presence in Ho Chi Minh City (HCMC) was said by the authorities to be "too dangerous for the safety and well-being of the people". In March 1994, the Vietnamese authorities denied that Thich Huyen Quang was under house arrest and in need of medical care. A government spokesman said that "he is now practising his religious services at the Hoi Phuoc Pagoda in Quang Ngai Province in Central Viet Nam". Amnesty International is concerned that Thich Huyen Quang is confined to his pagoda and its immediate premises and his right to travel within Viet Nam is severely restricted by the Vietnamese authorities. Amnesty International considers him to be a prisoner of conscience.
Thich Quang Do
Thich Quang Do, a researcher and scholar born in northern Viet Nam, is a leading member of the UBCV. An active human rights activist before 1975 he was arrested in February 1982 and banished to his native village - Vu Doai village in Thai Binh Province. In 1992 he was allowed to return to the Thanh Minh Thien Vien Pagoda in HCMC. Although the Vietnamese Government maintains that Thich Quang Do is not currently under house arrest, reliable reports indicate that he is confined to his pagoda and its immediate surroundings. Amnesty International is concerned that his right to travel in Viet Nam is severely restricted by the Vietnamese authorities. Amnesty International considers him to be a prisoner of conscience.
Thich Nguyen Giac
Thich Nguyen Giac (lay name Ho Khac Dung) was born in 1951 in Thua Thien. He was arrested on 2 April 1984 along with eleven Buddhist monks and nuns who were accused of membership of an illegal organization. Many of them were detained without trial until September 1988 when they were tried by a court of first instance in Ho Chi Minh City. They were charged with involvement with a "counter-revolutionary organization" called the Free Viet Nam Force. Thich Nguyen Giac was tried in September 1988 and sentenced to 14 years' imprisonment. He is currently detained in a "re-education" camp at Xuan Phuoc, Phu Yen Province. Amnesty International considers him to be a prisoner of conscience.
Thich Tri Sieu
Thich Tri Sieu (Le Man That) was born in 1943 in Trieu Phong, Quang Tri Province. He is a Buddhist scholar and author. He was arrested on 2 April 1984 in HCMC along with Thich Nguyen Giac and other Buddhist monks and nuns for membership in an illegal organization called Free Viet Nam Force. He was sentenced to death in September 1988 but the sentence was later commuted to 20 years' imprisonment by the Supreme People's Court. He is believed to be imprisoned in Z30A Xuan Loc camp, Dong Nai Province. Amnesty International considers him to be a prisoner of conscience.
Thich Tue Sy
Thich Tue Sy (Pham Van Thuong) was born on 15 February 1943 in Laos. He was arrested on 1 April 1984 along with a group of Buddhist monks and nuns. They were accused of leading a "counter-revolutionary organization" called Free Viet Nam Force. He was brought to trial and sentenced to death in September 1988. The sentence was commuted to 20 years' imprisonment by the Supreme People's Court in November 1988. In December 1989 he was transferred to a "re-education" camp at Xuan Phuoc, Phu Yen Province. Amnesty International considers Thich Tue Sy to be a prisoner of conscience.
Thich Thien Tan
Thich Thien Tan (Thai Thanh Hung), a member of the UBCV was born in June1945. He became abbot of the pagoda of Thuyen Ton in Hué city in 1972. He was arrested in August 1978 and tried in March 1980 by the People's Court in Hué. He was accused of "political participation in rebellious activities" and sentenced to life imprisonment. He is currently imprisoned in A20 camp, Xuan Phuoc, Phu Yen Province. Amnesty International is concerned that Thich Thien Tan may have been imprisoned solely on account of his religious beliefs and activities. Amnesty International is seeking more information about his trial and the evidence used as the basis for his conviction.
Thich Phuc Vien
Thich Phuch Vien (Le Hien) is a Buddhist monk at the Chau Lam temple in Hué. He was arrested in June 1980 and charged with "political participation in rebellious activities". He was later tried by the People's Court in Hué in September 1980 and sentenced to 20 years' imprisonment. He is believed to be currently detained in A20 "re-education" camp, Xuan Phuoc, Phu Yen Province. Amnesty International is concerned that Thich Phuc Vien may have been imprisoned solely on account of his religious beliefs and activities. Amnesty International is seeking more information about his trial and the evidence used as the basis for his conviction.
Thich Tri Tuu
Thich Tri Tuu (Le Quang Vinh), a member of the UBCV was born on 10 February 1953. Before his arrest in June 1993, he was Thich Tri Tuu the Superior Monk at the Linh Mu Pagoda in Hué. He was arrested along with other monks on 5 June 1993 at the Linh Mu Pagoda. The other monks arrested with him are Thich Hai Tang, Thich Hai Chanh and Thich Hai Thinh. They were initially detained at Thua Phu Prison in Hué but were later transferred to a prison in Nam Ha Province in north Viet Nam. They were tried in November 1993 and convicted of "disturbing public order". Thich Tri Tuu, who was accused of being the leader of the May 1993 "Hué riot", was sentenced to four years' imprisonment. Amnesty International is concerned that Thich Tri Tuu may have been denied a fair trial.
Thich Hai Tang
Thich Hai Tang (Nguyen Dinh Hoa), another member of the UBCV, was born on 14 March 1958. He was the Superior Monk at Long An Pagoda, Quang Tri Province. He was arrested on 5 June 1993 at Long An Pagoda and sentenced to four years' imprisonment in November 1993. He is believed to be currently detained in a prison camp in Nam Ha Province. He was accused of inciting some members of the crowd during the Hué May 1993 incident to stop a government car which was carrying Thich Tri Tuu, roll it over and set it on fire. Amnesty International is concerned that Thich Hai Tang may have been denied a fair trial.
Thich Hai Chanhand Thich Hai Thinh
Thich Hai Chanh ( Nguyen Chon Tam) and Thich Hai Thinh (Lê Phu Thinh), both Buddhist monks at the Linh Mu Pagoda, were each sentenced to three years' imprisonment in November 1993. They were both arrested on 5 June 1993 and accused of allegedly inciting some "extremists" in the crowd during the Hué May 1993 incident to stop a government car, roll it over and set it on fire. Thich Hai Thinh allegedly jumped on the roof of the People's Committee's car during the May 1993 incident and shouted insults at the government authorities. Both he and Thich Hai Chanh are believed to be detained in a prison camp in Nam Ha Province. Amnesty International is concerned that they may have been denied a fair trial.
Thich Han Ducand Thich Thien Tho
Buddhist monk Thich Han Duc (Vo Han Duc) was sentenced to three years' imprisonment in January 1994 by a court in the province of Ba Ria-Vung Tau. He was arrested in July 1993 and accused of having "conducted activities against the law" and "handing out documents hostile to the Socialist Government of Viet Nam," according to the charges. He is alleged to have organized a group of "extremists" armed with hoes, spades and sticks, and of preparing them to resist the government security police who went to the Son Linh Pagoda to evict him in July 1993. He was the Abbot of Sonh Linh Pagoda since 1983. The VBC (the government sponsored Buddhist organization) does not recognize him as Abbot of Son Linh Pagoda and in fact "expelled" him from the Buddhist Church on 23 February 1993 "because he had dissociated himself from the church and discarded the constitution and the monastic laws of the Viet Nam Buddhist Church". Buddhist monk Thien Tho was sentenced to house arrest for 18 months during the same trial as Thich Han Duc in January 1994. He was arrested together with Thich Han Duc during the Son Linh Pagoda incident. Amnesty International is concerned that both monks may have been denied a fair trial.
III. Appeals to the Government
The Vietnamese authorities released more than 100 political prisoners in 1992 and several prisoners of conscience in 1993. Amnesty International has welcomed these releases, but notes that the authorities continue to detain citizens for the peaceful expression of their political and religious beliefs. The Vietnamese Government has national and international obligations and responsibilities to ensure that the human rights of its citizens are respected and guaranteed, irrespective of their political opinions and religious beliefs. The protection of these human rights cannot be regarded as an internal affair of the country, but as an international obligation. These rights are guaranteed by international human rights agreements particularly Articles 14, 18, 19 and 22 of the International Covenant of Civil and Political Rights, to which the Socialist Republic of Viet Nam is a party. Viet Nam adopted a new constitution on 15 April 1992 which states in Article 50 that "In the Socialist Republic of Viet Nam, all human rights in the political, civil, economic, cultural and social fields are respected and manifested as citizens' rights stipulated in the Constitution and law."Article 70 states that "Citizens have the freedom to believe or not to believe in a religious faith".
Amnesty International appeals to the government to release immediately, and lift the restrictions imposed on, the Buddhist monks who are detained or confined solely for the non-violent expression of their opinions and beliefs, and are considered to be prisoners of conscience.
Amnesty International is further concerned that some Buddhist monks may have been tried under procedures that fall short of international standards of fair trial. It appeals to the Vietnamese Government to grant fair and open trials, in accordance with international standards, to all monks charged with political offences.
Topics: Buddhist,
Copyright notice: © Copyright Amnesty International
http://www.unhcr.org/refworld/publisher,AMNESTY,,VNM,3ae6a9a710,0.html
Về Z30A Xuân Lộc (1)



Khong phai lan dau tien toi den mot trai giam trong pham, nen cam giac khong nhieu ngo ngang, cung nhu khong qua mo ho ve hinh anh nguoi giam thi - chiu trach nhiem quan ly ca may ngan con nguoi dang phai cach ly voi xa hoi, nhung voi dai ta Nguyen Trung Binh, giam thi trai giam Z30A Xuan Loc, Dong Nai va mot buoi tro chuyen dai van la nhung bat ngo khong biet truoc.
“Ban” la cach ma cac pham nhan goi nhung nguoi trong ban giam thi trai giam ma dai ta Nguyen Trung Binh nam nay 57 tuoi la giam thi. Truoc khi ve lam giam thi o trai giam trong pham Z30A anh tung cong tac o Yen Bai, Vinh Phu, Ha Noi, o trai giam Tan Ky - Nghe An, roi di Campuchia, lam chuyen gia giup nuoc ban. Thoi gian Nguyen Trung Binh hoc trong truong khong co chuyen nganh ve trai giam, ma chi hoc nghiep vu cua nganh cong an noi chung, nhung anh gan bo voi nghe lam cong an trai giam cung da gan het phan doi. Khong thich va khong muon noi ve minh, nho nhe, tram tinh nhung rat ranh mach trong nhung tro chuyen lien quan den cong viec la an tuong ma nguoi giam thi nay mang lai cho nguoi doi thoai voi anh.
Bai & anh: Le Thi Thai Hoa, Viet Bao
Những lời nhận định về người Việt
Lời người đǎng tải bài viết: Bài viết dưới đây được thu lượm trên emails của chúng tôi do các quý bạn hữu chuyển đến. Rất tiếc bài không có tựa và không ghi xuất xứ. Chúng tôi xin mạn phép đặt tựa đề cho bài viết là “Những lời nhận định về người Việt.”  Chúng tôi sẽ sửa lại tựa đề vừa khi nhận được tựa đề chính thức của bài viết. Bài viết cũng không có tên tác giả, và chúng tôi cũng sẽ chỉnh sửa lại sau khi biết tên tác giả.
Chúng ta đang đi trên một số nhận định và quan điểm trước khi bước vào triển khai một dự án quan trọng nhằm giải phóng tù nhân chính trị tại Việt Nam.
Blog Quan Điểm Việt Nam 2011 mang chủ đề Thanh Niên Việt nam vì tự do và hạnh phúc dân tộc đốt lên ngọn lửa cách mạng rất mong muốn đón nhận tất cả quan điểm chia xẻ của tất cả quý thân hữu trong và ngoài nước. Email: viettrade.net@gmail.com
Đây là nhận định và ý kiến cá nhân của người viết mà thôi. Đúng hay sai còn tùy hoàn cảnh, kinh nghiệm và sự thẩm định của mỗi độc giả.


Cụ Trần Trọng Kim, một nhà giáo lỗi lạc, một học giả danh tiếng và cũng là vị Thủ Tướng đầu tiên của Việt Nam, đã viết trong bộ sử “Việt Nam Sử Lược” (1925) về tính tình, tư cách của người Việt Nam (nguyên văn – trang 7 tiểu mục “Người Việt Nam”) như sau:

“Về đàng trí tuệ và tính tình thì người Việt nam có cả tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, làm năm Đạo Thường cho sự ăn ở. Tuy vậy, vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà khi đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.

Tâm địa nông nổi hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng Nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.”

Những lời nhận định về người Việt này đã cũ trên 80 năm mà chưa thấy ai lên tiếng phê phán Cụ là “không chính xác,” “sai lầm,” “thiếu công minh,” “thiên vị” hay “sỉ nhục dân tộc!” Nhiều người còn cho là Cụ có nhiệt tâm muốn thành thật vạch ra những cái tốt và cái xấu của người mình để hậu sinh học hỏi, sửa đổi; hầu xây dựng một tương lai trong sáng và tiến bộ cho đất nuớc.

Đất nước vừa trải qua những biến cố nghiêm trọng, lòng người hoang mang, ngờ vực, suy tư… Người Việt ở trong nước cũng như ở hải ngọai đã có rất nhiều băn khoăn nan giải về vấn đề “mình phải tự nghĩ về mình thế nào?” hoặc “mình nên trả lời thế nào về dân tộc mình trong trường hợp có người ngọai quốc hỏi?” Trong bài nhận định này, tôi xin phép theo bước chân của cụ Trần Trọng Kim để đóng góp một vài ý kiến cá nhân có thể còn rất phiến diện. Rất mong được quí vị độc giả chỉ giáo thêm.

Trong thời buổi này, người Việt, chẳng cần phải tự hào mà cũng chẳng cần phải tự ti. Khi được hỏi mình cứ trả lời cho đúng, đầy đủ, vừa phải, không dư thừa … là được rồi. Chối bỏ nguồn gốc của mình, hay vênh vang ngạo mạn đều hồ đồ cả - Cứ nói sự thật. Việt Nam cũng như mọi dân tộc khác, cũng có cái hay cái đẹp, cũng có cái xấu xa. Tự hào, hay tự ti, là ở ngay chính con người mình. Nếu mình thật sự giỏi thì chẳng cần biết mình là dân tộc nào, thiên hạ đều phục.

Người Việt chẳng có gì mà phải tự ti. Thế giới còn có nhiều nước tệ hại, kinh sợ hơn Việt Nam nhiều: cướp bóc giữa ban ngày, đĩ điếm đứng đầy đường, dân đen bị bóc lột hành hạ tàn nhẫn hơn, chính phủ độc tài cai trị sắt máu hơn, xã hội bị phân hoá khủng khiếp hơn, tham nhũng ở nhiều nước còn tàn chi hơn… (tôi không tiện liệt kê tên các quốc gia này vì vấn đề tế nhị!) Tóm lại, chẳng có lý do gì phải tự ti mặc cảm.

Người Việt Nam cũng chẳng có gì quá đáng để tự hào. Tự hào thế nào được khi quốc gia bị bêu riếu mọi nơi là lạc hậu. Tự hào thế nào được khi quốc tế liệt kê Việt Nam trong danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo tận mạng, tham nhũng như ranh, dân trí đội sổ, dân chủ có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời… Chắc chắn sẽ có người sẽ giận dữ lên tiếng nhắc nhở tôi về lịch sử vẻ vang của Việt Nam, cái tài quân sự của người Việt, đánh thắng đế quốc Mông cổ; và mới đây đánh thắng luôn một lúc 3 đế quốc. Trong vấn để chiến thắng trong lịch sử này, tôi xin dẫn một câu chuyện điển hình về đại sứ VN tại Thái Lan mới đây để quí vi suy gẫm. Đại sứ VC đã trình bày một cách tự hào về Việt Nam với Quốc Vương Thái Lan là:

”Nước Việt Nam chúng tôi rất tự hào vì đã đánh thắng 3 đế quốc.”

Quốc Vương Thái Lan điềm đạm trả lời đại sứ VN là:

“Nước Thái lan chúng tôi cũng rất tự hào vì không phải đánh nhau với một đế quốc nào cả!” (nên biết Thái Lan cũng không phải đánh nhau với quân Mông cổ!)

Lịch sử Việt Nam hiện nay đã được viết dài dòng về công cuộc đấu tranh chống Pháp giành độc lập cho 25 (?) triệu dân Việt. Kết quả đưa đến việc thực dân Pháp đầu hàng sau trận Điện Biên Phủ 1954. Đồng thời, lịch sử thế giới cũng ghi lại là Thánh Gandhi của Ấn độ, giành lại độc lập cho 600 triệu dân Ấn độ mà không phải đổ một giọt máu nào. Ngay như thiên tài quân sự Tôn T ử (trong “Binh pháp Tôn T ử,” trang 4, Thiên thứ 3 “Mưu Công”) đã định nghĩa thế nào là “Quân sự giỏi” như sau (nguyên văn):

“Đại phàm cái phép dụng binh, làm cho cả nước địch khuất phục trọn vẹn là thượng sách, đánh nó là kém hơn... Thế nên bách chiến bách thắng cũng chưa phải cách sáng suốt trong sự sáng suốt. Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt.

Cho nên thượng sách trong việc dùng binh là lấy mưu lược để thắng địch, kế đó là thắng địch bằng ngoại giao, kế nữa là dùng binh thắng địch, hạ sách là tấn công thành trì… Cho nên người giỏi dụng binh, thắng được địch quân mà không phải giao chiến, đoạt thành mà không cần tấn công, phá quốc mà không cần đánh lâu, nhất định phải dùng mưu lược toàn thắng mà thủ thắng trong thiên hạ, quân không mỏi mệt mà vẫn giành được thắng lợi hoàn toàn.”

Như vậy, “thắng mà không phải đổ một giọt máu nào!” mới gọi là giỏi. Chứ còn phải nướng vài triệu nhân mạng để giải phóng vài chục triệu nhân mạng thì không biết phải nói hay ở chỗ nào?… Cũng nên biết thêm, thực dân Pháp mặc dù không bị thua trận ở Algeria, nhưng thực dân Pháp đã phải tự động trả độc lập cho Algeria (hoàn cảnh quốc gia này bị Pháp đô hộ giống y hệt như hoàn cảnh của Việt Nam) vì chính sách thực dân đã bị xem là lỗi thời, bị quốc tế phỉ báng…

Hiển nhiên, nhiều người ngoại quốc đã có sẵn những thành kiến về người Á châu nói chung (và người Việt Nam nói riêng) là hay ăn cắp vặt, lười biếng, ở bẩn, thiếu vệ sinh… thì mình cũng giải thích với họ là dân tộc nào cũng có kẻ thế này người thế khác. Hoặc gặp kẻ tán tụng dân tộc mình (phần lớn vì vấn đề thông lệ giao tế, không biết họ có thành thật hay không?) như là: “À! Anh thuộc về dân tộc vẻ vang nhất của thời đại…” Thì cũng từ tốn cố giải thích với họ là bây giờ là thế kỷ 21 rồi, những chuyện đánh nhau không cần thiết đó đã xưa rồi, bỏ qua đi tám, lập lại cũng chẳng có ích lợi gì. Những “vẻ vang” đó không thể tự nhiên mang lại no ấm, hạnh phúc hơn cho dân tộc…

Hãy nghe một nữ sinh viên Việt Nam du học (bây giờ còn được gọi là du sinh) ở Singapore (Tân Gia Ba) đã tâm sự như sau:

“Em chả dám bàn về chính chị chính em gì hết. Bởi vì bố mẹ bảo em là con gái không nên xen vào chuyện làng chuyện nước!

Năm 2001, cả dòng họ nhà em chắt mót lắm mới đủ tiền cho em đi Singapore du học tự túc. Thời gian mới qua em rất bất ngờ vì người dân bên đó hòa đồng và mến khách còn hơn cả cái kiểu tiếp khách của các bác trong các chương trình du lịch bên mình nhiều lắm. Em có một cô bạn gái người Singapore bên đấy. Hôm nọ, cô ấy rủ em đến nhà mấy người bạn Singapore chơi. Cô ấy lại dặn em là ‘khi người ta hỏi thì đừng bảo là người Việt Nam nhá!’ Em ức lắm và vì tự ái dân tộc nữa nên đến lúc mấy người kia hỏi em cứ nghênh mặt lên và trả lời ngay: ‘I am Vietnamese.’ Úi giời ơi! Sau câu trả lời ấy thái độ của cả nhóm thay đổi ngay. Cả buổi chẳng có ma nào hỏi han gì đến em câu nào nữa. Khi về cô bạn kia mới giải thích cho biết phụ nữ Singapore rất có ác cảm với phụ nữ Việt Nam bởi vì 80% phụ nữ Việt Nam qua Singapore đều làm điếm hết. Họ không muốn thân với em vì sợ em sẽ cướp chồng họ.

Đấy! Các bác cho em lời khuyên là có nên nghênh mặt bảo mình là người Việt Nam nữa không?”

Chúng ta nên buồn năm phút!! Hay nên tự hào năm phút?!

Nghiêm chỉnh mà nói cho nhau nghe, hay để dạy dỗ con cái thôi… là Việt Nam có nhiều cái rất đẹp và đáng tự hào. Bởi vì một cô gái xấu xí đến đâu, nếu nhìn kỹ vẫn tìm thấy một vài nét đặc biệt. Chẳng hạn cái thông minh cũng có thể làm mờ các khuyết điểm khác đi. Đất nước không thể vì một nền kinh tế chậm tiến, lạc hậu, nghèo đói, bị đè đầu cưỡi cổ triền miên mà người dân phải cho rằng mình đành chịu đựng một sự nhục nhã. Lịch sử Việt Nam dài hơn 4000 năm thì 60 hay 100 năm đâu có nghĩa lý gì. Nếu phải so sánh với các nước khác trên thế giới thì vấn đề lạc hậu, xuống dốc như thế này phải làm các ông lãnh đạo cảm thấy xấu họ mới đúng. Người dân đen không có gì phải xấu hổ cả. Kể cả cô em gái du học ở Singapore !

Ở hoàn cảnh nào cũng vậy. Không ai muốn vạch áo cho người xem lưng. Nhưng phải nói cho nhau nghe là ở Việt Nam hiện nay, lãnh đạo không hề để ý gì đến văn hóa Việt Nam ; cho nên nền văn hóa cứ thế mà tụt dốc phi mã. Các lãnh tụ “siêu việt,” “kiệt xuất” hoang tưởng chỉ có một cách, một phương thức một bài duy nhất dùng để phô trương, tự hào về Việt Nam là “chiến thắng vinh quang;” ngoài ra không có một thực chất hay một khả năng nào có thể dùng để xây dựng, phát triển dân giầu nước mạnh được. Nhật Bản sau 30 năm bại trận, từ đống tro tàn, không tài nguyên… trở thành một siêu cường của thế giới. Việt Nam sau 30 năm chiến thắng vinh quang, với tài nguyên dồi dào… vẫn không làm nổi một cái đinh ốc cho ra hồn. Hoang tưởng là ở chỗ đó.

Ở ngoại quốc, khi nói đến Việt Nam là người ta nghĩ ngay đến các vấn đề “nghèo,” “cộng sản,” “vòng lẩn quẩn cộng sản - nghèo…” toàn những cái “negative values;” chứ chẳng thấy “vinh quang” ở đâu cả? … Không hiểu dân tộc Việt Nam mắc nợ gì với CS mà CS cứ đeo dính dân tộc mình hoài vậy? (nên biết trên thế giới có trên 193 quốc gia – kể cả Vatican City - nhưng chỉ còn vỏn vẹn có 4 dân tộc “anh hùng” vẫn còn mắc nợ CS thôi!?)

Mỗi người có quan điểm chiến lược khác nhau; Có mức độ kỳ vọng khác nhau. Nhưng tôi nhìn nhận là người Việt có một số ưu điểm như sau:

1- Chịu được gian khổ (bị đô hộ trên 1000 năm vẫn sống; ăn “bobo,” khoai sắn độn dài dài vẫn sống; bị tù đày dài dài vẫn sống; nhịn đói 10 - 20 ngày trên biển vẫn sống…)

2- Tương đối dễ hòa và hội nhập với nền văn hóa dị biệt của nước người

3- Tương đối chăm chỉ so với một số dân tộc khác

4- Tương đối thông minh (không ngu quá!)

Chỉ có cái điểm “chịu đựng” là coi bộ nổi bật. Ba điểm còn lại cũng còn lờ mờ, khó nói, không rõ cho lắm! Nhưng mà dân tộc nào chả thế! Không chịu đựng được thì đã họ tự sát hết từ lâu rồi còn gì. Mà đâu có thấy dân tộc nào tự tử ào ào một lúc chỉ vì khổ quá đâu?

Nói về “văn hoá lưu vong” dường như chỉ có Do thái và Việt Nam có. Nhưng so sánh Do thái và Việt Nam có vẻ không công bằng. Dân Do thái bỏ đất đai ra đi vì bị các áp lực tôn giáo (Hồi giáo) và chủng tộc (Ả rập) ở Địa trung hải quá mạnh. Nếu ở lại họ sẽ bị tiêu diệt, bị xóa sổ. Dân Việt Nam bỏ đất nước ra đi bởi vì chính trị của người chính người Việt Nam chứ không phải vì áp lực của lân bang (hãy xem lại lịch sử thấy là dù Tầu có đánh mạnh đến đâu đi nữa, thì người Việt vẫn bám lấy đất và chiến đấu đến cùng!) Cái giống nhau là dân Do thái và dân Việt sống rải rác ở nhiều quốc gia Âu châu vẫn nhất là ở Hoa kỳ. Bây giờ hãy nhìn dân Do thái và dân Việt lưu vòng trên đất Mỹ. Chúng ta tìm thấy rất nhiều chuyện để học từ dân Do thái.

Người Do thái ở Mỹ không phải là những người “…bài bác nhạo chế nhau… thường thì nhút nhát… hay khiếp sợ… tâm địa nông nổi hay làm liều… không kiên nhẫn… hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài… hiếu danh vọng… thích chơi bời, mê cờ bạc… Kiêu ngạo và hay nói khoác… (nguyên văn lời của cụ Trần Trọng Kim đã viết ở phần trên!)” như dân Việt lưu vong. Ngược lại, dân Do thái (lưu vong) gián tiếp chỉ huy mọi chính sách của Mỹ: người Do thái gần như hoàn toàn kiểm soát nhiều lãnh vực quan trọng nhất trong sinh hoạt kinh tế (nhà băng, thị trường chứng khoán…) và khoa học (giáo sư đại học, khoa học khảo cứu gia, bác học…) và quan trọng nhất là hoàn toàn kiểm soát “media” (truyền thông, báo chí, kỹ nghệ phim ảnh, truyền hình...) ở Hoa K ỳ, Chỉ riêng với vấn để truyền thông (“media”) này, người Do thái đã dùng nó để hướng dư luận và quan điểm của dân Mỹ và đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến các chính sách lãnh đạo đối nội cũng như đối ngoại của Hoa kỳ theo các chiều hướng có lợi cho quốc gia Do thái. Vì vậy, Do thái chỉ có khoảng 3 triệu dân vẫn đánh thắng một cách rất dễ dàng các liên minh quân sự của Ả Rập có đến trên 100 triệu! Người Do thái lưu vong không cần phải lên tiếng tự hào về dòng giống Do thái của họ. Các dân tộc khác sống trên đất Mỹ phải tự nhiên nể và sợ họ là đằng khác!

Dân Việt lưu vong không có cái gì phải xấu hổ về sự lưu vong của mình. Có xấu hổ hay không là những các nỗ lực khoe khang hoang tưởng, phỉ báng lẫn nhau, ném bùn vào mặt nhau, đâm sau lưng nhau ở hải ngoại. Dân Việt Nam lưu vong mình nên cố gắng nhìn bài học lưu vong của dân Do thái để xây dựng một niềm tự hào, một sức mạnh lưu vong riêng cho chính mình.

Lúc nào cũng ra rả chiến thắng này, chiến thắng nọ; nhưng nhìn lại xem ai? Phe nào? là những người thực sự chịu đau khổ. Thực tế cho thấy “kẻ thua” thì ngoài một số ít chết (tỉ lệ số chết quá nhỏ so với dân và quân Việt bị chết!) chẳng thương tổn gì gọi là quá đáng cả. Họ vẫn là cường quốc, vẫn mạnh giỏi. Còn nước Việt Nam dân số đứng thứ 13 trên thế giới, với diện tích thuộc hàng trung vẫn bị coi là “nhược tiểu” (hãy xem nước Đức với diện tích và dân số như Việt Nam mà không bao giờ bị xem là nhược tiểu!) mà lại có về hài lòng! Tự sướng tự rên! Tự hào! Không biết lấy ở đâu ra? Tại sao chúng ta không làm cho mình thật mạnh để không nước nào dám xâm lấn, dám xâm lăng, dám cai trị chúng ta? Chúng ta tự hào thông minh, nhưng đó chỉ là cái thông minh vặt. Chúng ta dùng những “thành tích” nổi bật của một số nhỏ người Việt ở nước ngoài để cho rằng Việt Nam giỏi, nhưng đó chỉ là cái “tâm lý nhược tiểu.” Chúng ta phải dùng những cái “không phải của mình” để “tự khen;” đem những lời khen “ngọai giao” của người ngoại quốc để “tự thỏa mãn” cái tâm lý nhược tiểu của mình. Những người được đào tạo tài giỏi ở nước ngoài là nhờ “tài của nước ngoài” chứ không phải cái “tài của nước mình,” chưa đáng được dùng để gọi là “tự hào dân tộc.” Phải chờ đến lúc có du sinh ngọai quốc nài nỉ, nộp đơn xin được đến “du học” ở Việt Nam để học cái tài của nước Việt mình thì mới tính đến chuyện “tự hào” cũng chưa muộn!

Nếu chúng ta không suy gẫm kỹ lưỡng và đánh giá cho đúng con người mình, không dám nhìn thẳng vào sự yếu kém chung của mình, mà chỉ nhìn vào một vài “thành tích nổi bật lẻ tẻ” rồi tự hào, từ mãn thì đến muôn năm nữa vẫn không thoát ra khỏi cái thân phận nhược tiểu. Như vậy có một vấn để quan trọng thấy rõ không chối cãi được là vấn đề “lãnh đạo” (kể cả lọai lãnh đạo “sắt máu” như Hitler của Đức quốc xã!). Lãnh đạo sáng suốt sẽ đưa đất nước vượt lên các yếu kém lạc hậu, các chèn ép của quốc tế. Thật là buồn, nếu chưa muốn nói là một sự sỉ nhục phải là công dân dưới chế độ CS, đã và đang phải chấp nhận những kẻ không ra gì lãnh đạo mình. Đó là cái lãnh đạo thiếu đạo đức, lãnh đạo đang hủy hoại đạo đức, đang hủy họai truyền thống tốt lành của xã hội Việt Nam ; lãnh đạo dốt nát, độc ác, lãnh đạo lừa dối hành hạ dân lành… Ở Việt Nam bây giờ sự dối trả là căn bản cho mọi sinh hoạt của xã hội. Dối trá từ việc học hành, thi cử, việc làm, sản xuất cho đến thái độ cư xử với những người chung quanh… với một đất nước như vậy thì chỉ còn có các bác thật “anh hùng” và thật “kiệt xuất” mới dám có “can đảm” cảm thấy tự hào vì nó.

Cái oái oăm ở đây là hình như là người dân Việt Nam ở trong nước chưa cảm thấy có nhu cầu cần thiết để thay đổi chế độ và đòi hỏi thêm quyền chính trị. Bởi lẽ, như đã nói ở trên, người Việt Nam mình giỏi “chịu đựng” mà! Ừ thì chịu đựng nghèo, chịu đựng đói khổ đã đành; nay thậm chí còn giỏi chịu đựng cả sự sỉ nhục! Chưa có nhu cầu thay đổi, thì đào đâu ra động lực thay đổi. Không có động lực thì cũng kể như cứ việc thong thả nằm yên theo kiểu “con rùa lật ngửa” cho nó được việc! Cho qua ngày qua tháng! Muốn đi đến chỗ “có động lực” thì phải có một bộ máy giáo dục, thông tin hữu hiệu để giải thích cho mọi người hiểu tại sao cần phải có sự thay đổi (Nên biết “Lãnh đạo cũng giống như tã lót. Nó cần phải được thay thường xuyên – vì chung một lý do!) và thay đổi sẽ đem lại cho họ và con cháu họ những ích lợi gì. Nói tóm lại, đây là một chuyện to tát phải làm. Rất tiếc công việc này còn to tát hơn vì CS đã biến một khối 83 triệu người Việt thành mù, điếc và câm từ khuya rồi. Người có can đảm đi khai sáng họ sẽ bị lên án là “phản động!” Người muốn đi chữa bệnh nan y (Mù câm và điếc) sẽ phải trả giá rất đất như bị tù đày, bị bao vây an sinh… Thành ra, chỉ còn một giải pháp tiêu cực là đợi cho tham nhũng đến cùng cực, sự suy sụp đạo đức xã hội đến tột đỉnh thì CS sẽ tự nó hủy diệt nó! Cái giá của sự chờ đợi này có thể con đắt hơn mấy lần đi tù, bị bao vây kinh tế mà rất ít người biết…

Đôi khi mình cũng cần soi gương, không phải để tự ti hay tự hào, mà để tự đặt câu hỏi cho mình. Tự hỏi mình là tại sao người Việt thông minh mà dân tộc mình vẫn phải chịu nghèo đói; tại sao người Việt chăm chỉ mà vẫn còn người Việt đi làm thuê làm mướn với lương rẻ mạt ở những quốc gia cũng chẳng hơn Việt Nam bao nhiêu như Mã lai, Ba lan, Hung gia lợi…; Có lẽ vì vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật, vẫn ngủ quên trên chiến thắng; vẫn coi thường những dân tộc khác mà không biết là họ khôn ngoan hơn mình.

Đôi khi cũng nên nhìn vào gương để thấy mình còn may mắn vì nước Việt Nam mình ít ra chưa biến thành một Tây tạng hay một Đài loan thứ hai. Cứ đem cái quá khứ vẻ vang của dân tộc ra mà tự hào thì cái hiện tại chỉ càng làm cho mình đau lòng thêm. Hãy nhìn các anh hùng dân tộc đã đứng lên chiến đấu dành độc lập cho đất nước. Nếu chỉ mấy ông ấy đứng lên một mình không thôi thì có lẽ đã bị Tầu hay Tây (hay Mỹ) nó mượn chỗ đội nón từ khuya rồi. Làm quái gì mà có được “chiến tích thần kỳ.” Các ông ấy phải cần có sự hy sinh vô bờ vô bến của dân ngu khu đen nữa chứ!!! Lãnh đạo đến; rồi lãnh đạo lại đi (hoặc bị tiêu diệt!) Nhưng dân thì muôn đời vẫn còn. Cổ nhân đã nói: “Quân nhất thời; Dân vạn đại!” là vậy. Dân tộc và nước Việt Nam đã bị vùi dập nhiều rồi; không đáng phải bị lãnh đạo (bất xứng) vùi dập thêm.

Lời Kết:

Trước khi muốn chạy, thì phải tập đi cái đã. Dù có muốn hay không, dù đã sửa sắc đẹp toàn diện rồi, mình cũng vẫn là người Việt Nam , điều đó không thể chối cãi được. Câu hỏi đơn giản là mình có tự hào về bản thân mình không? Nếu mình không có tự hào cá nhân thì cũng chưa nên bàn đến tự hào dân tộc.

Tự hào thì có nhiều thứ lắm. Lịch sử liệt kê ra hai loại tự hào là:

Thành quả quân sự (chiến tranh - Chiến tranh lại được chia ra làm hai loại: chiến tranh tự vệ và chiến tranh xâm lược mà ông cha mình gọi là “mở mang bỏ cõi!”).

Oái oăm là cả người tự vệ lẫn người xâm lược cùng tự hào một lượt. Người xâm lược tự hào về sức mạnh. Xâm lược thành công nhanh chóng trong một thời gian ngắn được xem như một niềm tự hào, một chiến tích vẻ vang… Người đấu tranh tự vệ giữ nước tự hào về sự kiên cường, bất khuất, anh dũng.

Thành quả xây dựng: Các nước giàu mạnh tân tiến ngoài cái tự hào chiến tranh họ còn tự hào về các công trình xây dựng lớn lao, nền kinh tế khoa học kỹ thuật vượt bực góp phần vào sự phát triển chung của thế giới.

Nhưng thật buồn là Việt Nam ta, cho đến nay chỉ có một cái tự hào về chiến tranh thôi! Tự hào chiến tranh cuối cùng là chiến thắng trong cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước!” Cái chiến tranh này xẩy ra đúng vào lúc thế giới đang ở giai đoạn chiến tranh lạnh (giữa “Tây Phương và Nga xô” hay là “Thế giới Tự do và Cộng Sản quốc tế”) thì chỉ riêng có một mình Việt Nam là nhào đầu vào chiến tranh nóng thôi! Việt Nam thắng trận có nên tự hào không? Có lẽ có ! Nhưng đó là tự hào của người Cộng sản chứ không phải là tự hào của “Tổ quốc Việt Nam .”

“Giặc Mỹ” đến giúp Nam Hàn tự do đánh nhau với CS Bắc Hàn trước khi có chiến tranh nóng ở Việt Nam . Bây giờ là năm 2007, chiến tranh nóng Việt Nam đã nguội ngơ rồi ! Dân tộc Việt Nam đã trở thành “dân tộc anh hùng rồi !” Bắc Hàn và Nam Hàn đã đồng ý chia lãnh thổ từ lâu rồi; “Đế quốc Mỹ” vẩn còn có quân đội đóng ở Nam Hàn. Đã có ai thấy là “đế quốc Mỹ” cướp một tấc đất nào của Nam Hàn không? “Đế quốc Mỹ” còn ở đó giúp Nam Hàn tự do phát triển thành một sức mạnh kinh tế giầu có nhất ở Á châu mà nhiều con gái nước Việt anh hùng muốn sang làm cô dâu! (Không thấy có cô gái Việt Nam nào muốn sang làm cô dâu ở Bắc Hàn anh hùng cả ! Lạ nhỉ !!!)
Dân Tộc Việt Nam Hèn Kém Hơn Dân Tộc Tunisia, Dân Tộc Ai Cập?

http://mylinhng.multiply.com/journal/item/2162/2162


Hiện tại trong những ngày qua, có hàng triệu người dân ở Tunisia, ở Ai Cập đang đứng lên biểu tình, làm những cuộc cách mạng lật đổ những tên độc tài Ben Ali (tổng thống 23 năm) và Hosni Mubarak (tổng thống 30 năm).  Sự kiện này như ngọn lửa đấu tranh đã lây lan rất nhanh sang các quốc gia khác như Jordan, Yemen, Algeria, Albania... và có nhiều bài viết đưa ra những nhận định ngọn lửa đấu tranh sẽ lan rộng đến Trung Cộng và Việt Nam.  Nhưng hiện tại, ở VN, mọi việc gần như im lìm.  Câu hỏi được đặt ra, có phải chăng dân tộc VN hèn kém hơn, chết nhát hơn, thiếu người dũng cảm hơn dân tộc Tunisia, dân tộc Ai Cập?

Vậy nếu nói dân tộc VN hèn kém hơn các dân tộc Tunisia, dân tộc Ai Cập, vậy tại sao có thể thoát khỏi kiếp 1000 năm đô hộ của giặc Tàu?  Suốt một ngàn năm Bắc thuộc đó, hàng triệu người đã hy sinh cho việc dựng nước và giữ nước.  Từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu... Đinh, Lê, Lý, Trần... cho đến vua Lê Lợi, vua Quang Trung...  Và ngày hôm nay, VN vẫn giữ vững ngôn ngữ, phong tục, tạp quán đặc thù.    Chúng ta có thể khẳng định rằng, dân tộc VN không chết nhát, không sợ hãi, không hèn kém hơn các dân tộc khác.   Vấn đề nằm ở chỗ người dân VN bị đầu độc bởi nguồn thông tin một chiều, nói thẳng ra là láo khoét, không có sự thật.

Nhân vật Josept Goebbels, người từ giữ chức vụ Bộ Trưởng Tuyên Truyền dưới thời Đức Quốc Xã Adolf Hitler đã từng nói: "Bất cứ một điều dối trá nào, nếu được lập đi lập lại hoài, sẽ trở thành một sự thật".  Trong tất cả quốc gia bị cộng sản nắm quyền, đều áp dụng lời nói này của Goebbels, coi đó như một thứ kinh điển để cai trị người dân.  Những ai muốn nói lên sự thật, tức là phản động, tức là chống lại Nhà cầm quyền, đương nhiên phải nằm trong nhà tù, hoặc phải bị xử tử bằng đủ mọi cách.  Có hàng trăm, hàng ngàn lời dối trá qua sự tuyên truyền của Nhà cầm quyền Hà Nội trong suốt 66 năm dài kể từ 1945 cho đến hôm nay, và hiện tại vẫn còn hàng triệu người dân tin tưởng đó là sự thật.  Thí dụ như trong cuộc chiến tranh xâm lược để bành trướng chủ nghĩa CS vào trong Nam,  Nhà cầm quyền Hà Nội đã láo khoét tuyên truyền rằng, người dân miền Nam dưới sự kềm kẹp của "Mỹ Ngụy", đời sống đói khổ triền miên, phải ăn cơm độn ngô khoai bằng muỗng dừa (lấy sọ dừa khô làm chén).  Bởi thế bộ máy tuyên truyền của Hà Nội mới có cớ để thúc dục hàng triệu thanh niên lên đường vào B (vượt Trường Sơn vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh) để "giải phóng" miền Nam.  Than ôi, sau tháng 4 năm 1975, những người bộ đội như nhà văn Dương Thu Hương, nhà báo Nguyễn Khắc Toàn, nhà văn Hoàng Ấu Phương (Bảo Ninh)... khi bước chân vào Sài Gòn đã bật khóc.  Một miền Nam giàu có và trù phú, lễ phép, đạo đức, tình người không thể tưởng tượng nỗi.  Gần như bất cứ nhà máy, hãng xưỡng nào có mặt trên thế giới vào lúc đó, miền Nam đều có, tổng cộng lúc đó trên 8000 hãng xưỡng lớn nhỏ, còn có cơ xưỡng lắp ráp xe hơi LaĐàLạt, trong khi đó Nam Hàn (Hàn Quốc) chưa có.  Vài tháng sau, người dân miền Bắc vào Nam, đã mang theo "chục chén sành", "nửa ký đường Cuba", "1, 2 ký gạo", "vài trăm gram mì chính (bột ngọt)", vài gói thuốc lá "Điện Biên, Vàm Cỏ" coi như là những món qùa "vô cùng sang trọng, qúy gía" để tặng cho thân nhân, họ hàng...  Hỡi ơi, một miền Bắc điêu tàn cùng cực, qua đời sống tem phiếu, mỗi người dân lãnh 2 mét vải Xô mỗi năm, chưa từng biết giấy đi cầu Kissme là gì, họ phải dùng lá, lá chuối và giấy báo thay cho giấy đi cầu.  Bởi thế, Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 2 tháng 9, năm 1945, nửa nước Việt Nam (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) giành "độc lập" khỏi tay thực dân Pháp là một điều láo khoét nữa.  Thật ra, trước đó, HCM đã chết vì bịnh ho lao trong nhà tù HồngKông vào năm 1933.  Dựa theo cuốn sách "Từ Thực Dân Đến CS" của ông Hoàng Văn Chí, trang 79, có viết như sau: "Báo Daily worker, cơ quan của Đảng Cộng Sản Anh, đăng một tin vắn tắt, nói ông Hồ đã chết vì bệnh lao trong khám đường Hồng Kông nên cả mật thám Pháp lẫn CSVN đều tin là thực. Năm 1933, mật thám Pháp ghi vào hồ sơ Nguyễn Ái Quốc là đã chết ở Hồng Kông."  Thời này, bệnh ho lao là bất trị, làm gì có thuốc Streptomycine để NAQ có thể còn sống sót.  Thành ra, tên HCM tự nhận NAQ thành lập chính phủ lâm thời tại Tân Trào, đích thực là một tên gỉa mạo, nói thẳng là tên gián điệp Tàu Cộng, phục vụ dưới sự chỉ chị của Mao Trạch Đông, và sau này là Chu Ân Lai.  HCM phục vụ cho mẫu quốc Tàu thì lấy gì gọi là "độc lập".  Vì thế, chúng ta chẳng lạ gì khi HCM cùng đồng ý với Chu Ân Lai để chia nước Việt Nam ra làm 2 theo Hiệp Định Geneve 20 tháng 7 năm 1954.  Không một người Việt Nam nào đủ nhẫn tâm hay điên rồ để chia đôi đất nước VN, "độc lập" là thế ư?.  Đại diện chính quyền miền Nam thời đó là bác sỹ Trần Văn Đỗ đã cương quyết không ký vào bản Hiệp Định bán nước này.  Rồi đến 14 tháng 9 năm 1958, HCM lại dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu Cộng qua Công Hàm Bán Nước mà Phạm Văn Đồng trong vai trò thủ tướng đã ký, "độc lập" là thế ư?  Chưa kể đến nghi vấn 2 triệu dân miền Bắc phải chết đói năm Ất Dậu 1945, lý do tại sao?  Đơn giản thôi, cái chính phủ lâm thời ở Tân Trào và đoàn quân của nó chỉ phục vụ cho quyền lợi của Tàu Cộng, thu gom lúa thóc hết của dân cho đoàn quân, bất chấp cái đói, cái chết của dân Việt.  Bất cứ ai là người Việt Nam, phải viết lại những vần thơ của văn nô Tố Hữu, dưới sự đặt hàng của HCM, bắt học sinh, sinh viên VN phải học thuộc lòng, chắc sẽ cảm thấy vô cùng xấu hổ:

Giết, giết nữa, bàn tay không chút nghỉ
Cho ruộng đồng, lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu, rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt.

Đau thương cho cả một dân tộc, người VN phải đi tôn sùng một tên đồ tể giết người Mao Trạch Đông, thủ phạm cho cái chết của 60 triệu dân Trung Quốc.  Đau thương cho cả một dân tộc, đến giờ phút này, vẫn còn hàng triệu người dân Việt tiếp tục tin rằng, hoặc cho rằng HCM có công giải phóng và thống nhất đất nước.  Có thể nói, trước tháng 4/75, một nửa đất nước miền Bắc bị cai trị bởi bọn Tàu Cộng và Liên Xô, và sau tháng 4/75 cả một nước bị cai trị.  Đau thương cho cả một dân tộc, đến giờ phút này, Nhà cầm quyền Hà Nội còn bắt buộc học sinh, sinh viên phải học tập cái gọi là "Tư Tưởng HCM".  Đây cũng là sự tuyên truyền bịp bợm, dối trá của Nhà cầm quyền Hà Nội.  Tư Tưởng gì, ngoài tư tưởng Cải Cách Ruộng Đất, rập khuôn với Cách Mạng Văn Hóa của Tàu Cộng để giết ít nhất là 172 ngàn dân Việt Nam vô tội.  Đau thương cho cả một dân tộc, đến giờ phút này, người dân Việt Nam trong nước vẫn còn bị nhồi sọ bởi 700 cơ sở tuyên truyền phải đi theo chiều bên phải, như Bộ Trưởng Thông Tin Lê Doãn Hợp đã từng xác nhận.  Đau thương cho cả một dân tộc, đến giờ phút này, cả thế giới được thông tin tự do, trong khi người Việt Nam trong nước bị ngăn chặn bởi những bức tường lửa (firewall), bị cấm đoán, bị cản trở khi vào những trang web gọi là "phản động".  Nhà cầm quyền Hà Nội cũng đã và đang tìm mọi cách để cản trở việc người dân vào Paltalk, FaceBook, Twitter, và Multiply... Đau thương cho cả một dân tộc, đến giờ phút này, Nhà cầm quyền Hà Nội đã dâng Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Bãi Tục Lãm, Núi Đất (Lão Sơn), Hang Pắc Bó, trên 700 km vuông vùng biên giới Việt Trung, và các hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa, mà người trong nước ít ai biết đến.  Ngư dân Việt bị bắn, bị giết, bị bắt cóc, bị đâm gẫy đôi ghe đánh cá, bị đòi tiền chuộc bởi "tàu lạ", nói thẳng ra là tàu của Tàu Cộng mà chẳng thấy Nhà cầm quyền lên tiếng, hay bảo vệ, đôi lúc bà phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Nguyễn Phương Nga chỉ nói qua loa để gạt ngư dân mà thôi.  Có nhiều người đã nhận định nước Việt Nam đã hoàn toàn lệ thuộc vào Tàu Cộng qua việc ăn mừng Quốc Khánh 1/10 của Tàu Cộng trong dịp Đại Lễ Ngàn Năm Thăng Long và bộ phim "Lý Công Uẩn, Đường Tới Thành Thăng Long" cũng đã nói lên sự lệ thuộc đó, khi đạo diễn bộ phim lại là người Tàu, tất cả quan cảnh cũng của người Tàu, và đa số là người dân Tàu đóng phim, chỉ vài người trong bộ phim là người Việt thôi.  Chính bộ phim này, người dân phẫn nộ và các Đài Truyền Hình đã ngưng chiếu.  Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ cũng đã từng lên tiếng phản bác bộ phim này, và kết tội đích danh Nguyễn Sinh Hùng và Nguyễn Tấn Dũng phải chịu trách nhiệm đối với bộ phim Hán hóa này.

Hàng trăm, hàng ngàn điều dối trá mà Nhà cầm quyền Hà Nội đã tuyên truyền trong suốt một thời gian dài từ 1945 cho đến hôm nay 2011, vẫn có hàng triệu người dân xem đó là sự thật.  Những điều dối trá, tiếp tục lập đi lập lại hàng chục năm, đương nhiên trở thành sự thật theo Goebbels đã nói ở trên.  Lúc đó, con người như một cái máy phản xạ có điều kiện.  Điều kiện là hễ có ai nó đụng chạm đến Hồ Chí Minh, tự nhiên họ nhảy đổng lên chửi thề, chửi tục, rồi chụp mũ ngay là cái quân "phản động", chẳng cần phải suy nghĩ, hay phân tích lý lẽ, hay đi tìm sự thật.  Hễ ai vạch trần những sai lầm của Đảng, của Nhà cầm quyền, liền bị tố cáo ngay là thành phần phản động, thành chống phá đất nước, thành phần nói xấu đất nước.  Đất nước vô cùng tang thương ở chỗ, những nhà dân chủ yêu nước thương dân, bất khuất, dũng cảm như linh mục Nguyễn Văn Lý, chị LS Lê Thị Công Nhân, anh LS Nguyễn Văn Đài, anh LS Lê Công Định, anh KS Trần Huỳnh Duy Thức, anh trung tá Trần Anh Kim, anh KS Lê Thăng Long, anh KS Phạm Minh Hoàng, anh thày giáo Vũ Hùng, anh nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, anh bộ đội Trần Đức Thạch, anh sinh viên Ngô Quỳnh,  chị nhà báo Phạm Thanh Nghiên, chị nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, mục sư Dương Kim Khải, anh sinh viên Nguyễn Tấn Hoành, anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, chị Đỗ Thị Minh Hạnh, anh Phạm Văn Viêm, TS luật Cù Huy Hà Vũ, anh Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), anh thạc sỹ Nguyễn Tiến Trung, anh LS Nguyễn Bắc Truyển, anh Nguyễn Văn Tính, anh Nguyễn Mạnh Sơn, anh Nguyễn Văn Túc, chị Nguyễn Kim Nhàn, anh Phạm Văn Trội, anh Nguyễn Bình Thành, anh Nguyễn Phong, chị Trần Thị Thúy, anh Nguyễn Thành Tâm, anh LS Phan Thanh Hải (AnhBaSaiGon), blogger Uyen Vũ, cựu Đảng Viên ĐCSVN Vi Đức Hồi, nhà giáo Đinh Đăng Định, chị Hồ Thị Bích Khương, anh MS Nguyễn Trung Tôn, MS Nguyễn Hồng Quang, anh Nguyễn Ngọc Quang, anh Lê Trí Tuệ, LS Lê Chí Quang... (còn qúa nhiều nên không nhớ hết, thành thật xin lỗi), lại bị kết tội thành phản động, phản quốc, rồi bị giam cầm.  Điều này cũng nói lên bản chất láo khoét của Nhà cầm quyền Hà Nội.  Trong khi đó, những tên cầm quyền kém học vấn, kém kiến thức, toàn là những lũ lưu manh mang bằng cấp tiến sỹ tại chức, cử nhân tại chức... và chúng nó độc tài độc đảng hại nước hại dân như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang vẫn tiếp tục đè đầu cỡi cổ người dân.  Sau Đại Hội 11 vừa qua, chúng nó lại theo kiểu "cha truyền con nối", kéo con cháu nó vào làm ủy viên trung ương của ĐCSVN, như Dũng kéo Nguyễn Thanh Nghị, và như Mạnh kéo Nông Quốc Tuấn (tên này hiện tại là Bí Thư tỉnh ủy Bắc Giang, con Tuấn là Nông Đức Hải, tình nghi 99% là thủ phạm trong vụ án giết người trong xe Lexus, và cô sinh viên Vũ Kim Anh, vợ sắp cưới của Hải đã đi tù thế cho tội ác giết người vì ghen tuông của Hải).

Vừa rồi, theo tin tức của trang BBC (*1) dưới đây, linh mục Nguyễn Văn Lý sẽ vào lại trại tù ngày 13/5/2011, vì đã đúng thời hạn 1 năm để LM Lý có thể tự chữa bệnh do chánh sách "nhân đạo" kiểu giết người của chế độ CS.  Trong qúa khứ đã có hàng trăm vụ tù cải tạo được thả ra cho về với gia đình vì lý do bệnh tật, nhưng khi tù nhân được cho về đến nhà chừng vài bửa, cho đến vài tháng là bị chết ngay vì căn bệnh.  Đây hoàn toàn không phải vì chánh sách nhân đạo, chỉ vì Nhà cầm quyền không dám nhận lãnh trách nhiệm đã gây ra cái chết đối với linh mục Lý, nếu linh mục Lý chết trong tù.  Và lúc đó, cả thế giới có quyền chỉ vào mặt Nhà cầm quyền là chúng bây đã giết hại linh mục Lý, Hà Nội sẽ khó ăn nói, rất khó trả lời.  Tai biến mạch máu não là một căn bịnh giết người rất dễ dàng bất cứ lúc nào, nhưng có lẽ Hà Nội đã đoán sai, nghĩ rằng linh mục Lý chắc không sống nỗi qúa vài tháng nên chúng tạm cho ra ngoài điều trị.  Có lẽ Thượng Đế dã giúp dân tộc Việt Nam, linh mục Lý chẳng những không chết, mà còn đưa ra vụ kiện ĐCSVN đã kế thừa và đồng lõa trong tội danh phản quốc và bán nước.  Và kế đó, linh mục Lý đã viết thêm Lời Kêu Gọi rất đặc biệt nhằm tiến hành quốc vụ giải thể chế độ CS bằng những cuộc xuống đường biểu tình bất bạo động.  Sau đó, đã có hàng trăm tổ chức, đảng phái, hội đoàn, nhân sĩ ... đã cùng lên tiếng hỗ trợ Lời Kêu Gọi này, vì thế có thể gọi, đây chính là nền móng căn bản để khai tử chế độ CS, dù có sự hiện diện hay không của linh mục Lý, coi như nghĩa vụ đã hoàn tất.  Hiện tại, Hà Nội đang đứng trước tình thế "tiến thoái lưỡng nan".  Bắt một linh mục mang bệnh tật vào tù có lẽ sẽ làm bùng nổ ngọn lửa đấu tranh hơn bao giờ hết, chưa nói đến việc bị lên án bởi toàn thể nhân loại yêu chuộng tự do, dân chủ, hòa bình.  Đơn giản, vì Bản Di Chúc Số 1 của linh mục Lý đã khẳng định "tuyệt thực vô thời hạn liên tục nhiều đợt nối tiếp nhau và khước từ mọi điều trị của bạo quyền CS".  Bản di chúc này được xem gần như là một bản Tuyệt Mạng Thư, thách đố sự bắt giam của Hà Nội vào ngày 15/3/2011 sắp tới này.  Còn Hà Nội không bắt giam, có lẽ tiến trình cuộc giải thể chế độ CS này sẽ chậm hơn, nhưng không kém phần quyết liệt và hấp dẫn vì có sự hiện diện của linh mục Lý, bảo đảm chế độ CS này sẽ ăn không ngon và ngủ không yên.  Nhìn qua hình ảnh linh mục Lý, chúng ta thấy bóng dáng bất khuất, dũng cảm của tướng Trần Bình Trọng khi xưa với lời khẳng khái: "Ta thà làm qủi nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc."  Ở đây, qúy bạn trẻ nên phân biệt rõ, Nam là nước Việt Nam của chúng ta, còn Bắc đây là giặc Tàu phương Bắc.  Có một số người từng lầm lẫn, xem Ải Nam Quan như cái ải có cỗng hướng Nam, thành ra ANQ thuộc phần đất của Tàu Cộng.  Và họ cho rằng, nếu Ải Nam Quan đặt ở mũi Cà Mau, mới là phần đất của nước VN mình.  Có lẽ, họ cũng quên mất câu khẳng định chủ quyền của tướng Lý Thường Kiệt: "Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư", Nam này cũng là nước Nam, tức Việt Nam, chứ chẳng có nghĩa gì gọi là hướng Nam.

Một lần nữa, hãy nhìn linh mục Lý, hãy nhìn các nhà dân chủ đang đấu tranh, chúng ta cùng khẳng định, bản chất dân tộc Việt Nam không hèn, không chết nhát, và không thiếu người dũng cảm đâu.  Cuộc vượt biên vượt biển vĩ đại của trên 2 triệu dân Việt với 500 ngàn chết biển đông vì hải tặc, vì đói, vì sóng gío, chứng tỏ dân Việt không hèn. Lý do dân Việt chưa vùng lên như các dân tộc Tunisia, Ai Cập... vì hàng triệu người dân Việt trong nước đang bị đầu độc, bị nhồi sọ, bị bưng bít thông tin, bị tường lửa, bị bóp méo sự thật, và họ đang rất cần những tin tức sự thật của chúng ta.  Đây là cuộc đấu tranh giữa sự thật và sự gỉa dối.   Hãy cùng hợp sức với nhau, tìm những địa chỉ emails gởi tin về quốc nội, người trong nước khi nhận được, cũng tìm cách phát tán, nhân rộng ra.  Thời đại mạng lưới điện toán, cho tất cả chúng ta niềm tin tất thắng, mọi bưng bít bằng tường lửa trước sau cũng sẽ bị phá vỡ.  Sự sụp đổ của chế độ CS độc tài phải là điều tất yếu, tất cả chỉ còn lại là thời gian, lâu, mau, chậm, lẹ là tùy ở sự đóng góp cũng như ý thức trách nhiệm của tất cả chúng ta.  Mỗi chúng ta, đừng bao giờ coi thường việc phát tán những tin tức qua emails, "lỗ nhỏ đắm tàu", "kiến tha lâu đầy tổ", "có công mài sắt có ngày nên kim".

Ngày 7 tháng 2 năm 2011
Xin phổ biến tự do