The Global Daily Watch and National Security
HỒ SƠ THỀM LỤC ÐỊA và BẢN ÐỒ VIỆT NAM CỘNG HÒA VAC-NORCAL ÐỆ TRÌNH LHQ 13/5/2009
- HỒ SƠ THỀM LỤC ÐỊA và BẢN ÐỒ VIỆT NAM CỘNG HÒA VAC-NORCAL ÐỆ TRÌNH LHQ 13/5/2009
- GENEVA AGREEMENT 1954
- PARIS AGREEMENT 1973
- FOREIGN RELATIONS US AND RVN 1969-1976
- NHỮNG HOẠT ÐỘNG QUÂN SỰ TẠI BIỂN ÐÔNG và TÂY THÁI BÌNH DƯƠNG
- THE PARACEL ISLANDS
- REMARKS ON THE EAST SEA CONFLICT
- VIETNAM REVIEW - THE STRATEGIC STUDIES
- REPUBLIC OF VIETNAM MINISTRY OF FOREIGN AFFAIRS WHITE PAPER SAIGON 1975
- Archives of the Republic of Vietnam and the East Sea
- NHỮNG TÁC ÐỘNG KINH TẾ LÊN KHU VỰC BIỂN ÐÔNG
- THE RVN CULTURAL, EDUCATIONAL MUSICS
- NHỮNG TRẬN ÐÁNH QUYẾT ÐỊNH (THE DECISIVE BATTLES)
- TÀI LIỆU về TVBQGVN (VNMA Archives)
Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014
Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014
Thứ Hai, 10 tháng 3, 2014
Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2014
Ɖêm Trao Vương Miện Hoa Hậu Phu Nhȃn Karen Tiêu
Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014
Công nghệ làm đũa dùng một lần bằng lưu huỳnh ở Trung Cộng.
Lưu huỳnh và parafin là những chất không thể thiếu tại nhà máy sản xuất để giữ cho đũa khô, và lưu giữ được lâu sau khi đóng gói.
Công nhân một nhà máy sản xuất đũa đang đánh bóng những đôi đũa dùng một lần bằng sáp parafin độc hại tại Liễu Châu, khu tự trị Quảng Tây, Trung Cộng.
Tre dùng để làm đũa dùng một lần được xếp ngổn ngang trong nhà kho của nhà máy.
Bể ngâm đũa với số lượng lớn có màu đỏ vàng, và có mùi hăng.
Để làm trắng, và giữ cho những đôi đũa dùng một lần không bị nấm mốc, các công nhân của nhà máy sử dụng chất sodium metabisulfite, một loại chất thường sử dụng trong việc lưu giữ dụng cụ thực phẩm.
Lưu huỳnh và sáp parafin là những chất không thể thiếu tại nhà máy sản xuất đũa này để giữ cho đũa được khô, và lưu giữ được lâu sau khi đóng gói.
Một công nhân nhà máy đang sắp xếp đũa sau khi đã được ngâm chất lưu giữ, và sấy khô.
Không ít người bị ngỡ ngàng khi xem những hình ảnh về sự sản xuất loại đũa tre dùng một lần này.
Ông Dong Jinshi – Tổng thư ký Hiệp hội bao bì thực phẩm quốc tế, cho biết hầu hết loại đũa này được sản xuất ở những xưởng khu vực miền núi, nơi mà không có giấy phép sản xuất.
Hướng Dương
Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014
‘Bò viên’ từ thịt chuột vào nhà hàng Việt như thế nào?
‘Bò viên’ từ thịt chuột vào nhà hàng Việt như thế nào?
Hàng ngày, bò viên làm bằng thịt chuột ở Campuchia được vận chuyển trái phép qua biên giới và từ đó phân phối rộng khắp trong hệ thống nhà hàng, quán ăn ở Việt Nam.
Từ cơ sở “bò đểu” ở Phnom Penh
Nằm sâu trong một con hẻm vắng vẻ ở Steung Meanchey, phía sau đường Choam Chao, là một nhà kho nhỏ chỉ rộng 40m². Sau cánh cửa nhôm có 5 người đàn bà lớn tuổi, tóc đều bạc, ngồi dưới đất. “Bò viên” từ nơi đây xuất ra không hề thơm tự nhiên hoặc có nhiều gia vị như bò viên thật, bởi nguyên liệu chính là thịt chuột cống.
Trong 2 cái thùng xốp là hàng trăm thớ thịt chuột được xếp thành lớp, hôi nồng nặc, da đã lột, đầu cũng đã cắt ra, chỉ còn chiếc đuôi dài khoảng 15cm thì vẫn gắn liền với tấm thân thối rữa. Phần đầu tiên trong công đoạn chế biến: màu nhân tạo sẽ được bỏ vào trong thùng thịt để có “màu bò tự nhiên”. Hai người đàn bà ngồi ghế đẩu sẽ cho từng con vào một cái máy nghiền cũ. Ở đầu bên kia “ói” ra một thứ thịt vàng vàng, vẫn cứ hôi thối. Sau khi tất cả bị ném xuống cái sàn nhà kho bẩn, quy trình chế biến đổi từ “chuột cống thành phố” thành “bò đểu” bắt đầu.
Nguyên liệu làm mòn bò viên giả từ thịt chuột.
|
Sau khi xay hết thịt, một cô gái người Khmer sẽ bỏ nước mắm, bột thịt bò, bột tiêu, bột nêm vào thịt trộn đều cho đến lúc thịt quánh lại. Khi đã được “vị thịt tự nhiên”, những thợ làm thịt Khmer đó sẽ vô tư bọc thêm một lớp bột thịt bò bên ngoài, tức là bao miếng thịt chuột cống vào trong một lớp bột dày màu vàng. Sau khi được phủ bột gia vị và màu nhân tạo, thịt chuột cống bây giờ trông giống như thịt bò đàng hoàng, và trông không khác gì bò bằm thứ thiệt.
Trong góc kho, bên một nồi đun nước khổng lồ là một người đàn bà Khmer khoảng 60 tuổi, một tay cầm xẻng gỗ, một tay cho thịt đã quết vào nồi để luộc cho đến chín. Khi thịt chín đều, bà lấy “chuột viên” ra, bỏ vào một tô thép, chờ xe tải đến chở đi giao hàng qua biên giới Việt Nam. Hàng sẽ được cân tại kho theo từng bịch nhựa loại 15, 25, 30kg không nhãn mác, để khi qua biên giới, sẽ chỉ còn là những túi nhỏ từ 3kg trở lên.
Đến nơi chế biến thịt chuột
Theo lời kể của anh Seapchey Som, một lái buôn đường dài theo xe từ Phnom Penh thường xuyên đi Poi Pet, số thịt chuột này đều lấy từ một đại lý dưới gầm cầu Steng Meanchey, ngay phía sau bãi rác trung tâm của thành phố Phnom Penh. Chuột sau khi cân và lột da mà chưa cắt đầu thì có giá 3 ngàn riel/kg (mua vào) và còn giá bán là 5.000 đến 6.000 riel/kg. Ngoài thị trường, chuột cống và chuột đồng có giá bán như nhau. Chuột cân xong được vào thùng xốp không ướp đá, mùi hôi thối của thịt bốc ra nồng nặc, được chở đi chờ chế biến. “Trên quãng đường gần 400km này, tụi tôi rất dễ bị công an kiểm tra để phải ‘cúng’ thường từ 50 -100 USD tùy theo số lượng”.
Nghề bắt chuột có thể mang lại thu nhập 450 USD/tháng cho nhiều người Campuchia, cao hơn mức lương của một cảnh sát. |
Phần lớn số thịt này sẽ đem bán ở Thái Lan với mác “chuột đồng”. Nhưng chính tay Som khi đi mua thịt đã mang nó đến xưởng làm bò viên ở 2 cơ sở: một là ở biên giới Thái còn một nữa ở trong khu Steung Meanchey. Chỉ có mấy cơ sở thủ công nhỏ tại nhà thì mới làm thịt chuột, còn các công ty lớn thì không bao giờ. Nguy cơ bị công an bắt rất cao, nên ít ai dám đánh liều tiền bạc của mình vào đầu tư máy móc.Một phần số chuột cống bẩn này sẽ gửi qua cửa khẩu Khánh Bình, xã Khánh Bình, huyện An Phú, An Giang để đem bán lậu cho người Việt Nam.
Ở Campuchia, sát biên giới Khánh Bình, cơ quan chức năng nhìn chung vẫn còn hoạt động rất lỏng lẻo. Nhiều hàng hóa chỉ được xử lý hay kiểm dịch rất vội vã và tắc trách. Những ai trông giống người bản địa qua lại hai bên đều không bị khám xét. Chiếc xe nào có biển số quen đều có thể chạy tự do qua cổng với những binh sĩ biên phòng Khmer đứng nhìn thờ ơ. Thật không may cho người tiêu dùng Việt Nam, chính tình tình trạng lỏng lẻo này đã tạo điều kiện cho các đường dây mua bán thịt chuột hoạt động.
Lộc (nhân vật đã được đổi tên), một tiểu thương Việt Nam quen mua bán chuột giữa Phnom Penh và cửa khẩu Khánh Bình giải thích: “Tôi mua chuột với giá 4-5 riel rồi bán lại với giá 6-7 riel, tùy theo sức mua của thị trường vào ngày hôm đó. Chuột đồng rất có giá vào mùa khô và khi qua chế biến rồi thì chuột đồng và chuột cống chỉ là một”.
Thùng xốp không đá là cách bảo quản duy nhất của những nguyên liệu làm thịt viên giả. |
Đối với dân buôn bán người Việt, chuyện làm thịt giả là đi quá giới hạn luật pháp và cả sức tưởng tượng. Nhiều cửa hàng làm giò chả, từng đồng ý làm hàng của mình từ tôm hoặc cá cũ, nay nếu làm giả từ… thịt chuột thì thật quá “nghiêm trọng”. “Người ta sợ Sở Y tế phát hiện ra thì sẽ bị phạt hoặc bị bắt” – Anh Nguyễn Vi Hưng, một cò xe ôm làm ăn giữa hai bên biên giới cho biết.
Thế là để làm “bò đểu xuất khẩu”, những nhà cung cấp chuột sẽ tìm đến một số cơ sở nhỏ ít vốn đầu tư, không thu hút sự chú ý của các cơ quan kiểm tra, nằm ở ngoại ô Phnom Penh. Ngay ở tầng hầm và sân sau của những trung tâm mua bán lớn ở Phnom Penh, là một nhóm những cơ sở nhỏ, bất hợp pháp đang đánh cược số phận của mình vào nguy cơ bị phạt tiền và thậm chí bị bỏ tù để chế biến những viên thịt chuột cống nhiễm bẩn thành những miếng bò viên được đóng gói cẩn thận. Không quan tâm đến phúc lợi cộng đồng hay người tiêu dùng có thể bị mắc bệnh. Lợi nhuận đã làm mờ mắt tất cả những con người này khi họ tham gia vào cả một ngành công nghiệp sản xuất “bò đểu”.
Sống và mại dâm ngay giữa nghĩa trang lớn tại TP.HCM
10:
Nghĩa trang Bình Hưng Hòa (Quận Tân Phú) là nghĩa trang lớn nhất nhì tại TP.HCM. Không chỉ là nhà của người chết, nơi đây còn là nơi quần cư đông đúc của nhiều người. Họ sống, sinh hoạt, buôn bán, thậm chí hành nghề mại dâm ở đây!
Người sống nằm cạnh người chết
Gia đình bà Đỗ Quý Hòa (54 tuổi) vào Sài Gòn sống vào những năm 1986, lúc trước bà ở khu Chợ Lớn (Quận 5). Sau do làm ăn thua lỗ, bà phải bán nhà tìm đến khu nghĩa trang Bình Hưng Hòa mua đất. Theo bà, trước kia nghĩa trang này chỉ là một khu đất trống, cỏ mọc um tùm, hầm hố khắp nơi. Nếu một người sống đến đây mua đất cất nhà, thì lại có gần chục người chết ra đây "nằm". Theo đà "cạnh tranh không cân sức" đó, mồ mả cứ nhiều dần, bao vây lấy nhà dân.
“Mặt tiền gia đình tôi giờ chỉ có mồ với mả. Cách đây hơn chục năm chỉ có vài nhà tới đây sống, đêm về gia đình chúng tôi không dám bước ra cửa nửa bước. Gần đây người ta đến đây xây cất khá nhiều, không khí ấm cúng hơn. Tuy nhiên con đường dẫn vào xóm vẫn toàn mồ mả, đi đêm cứ rợn da gà”. - bà Hòa bày tỏ.
Hiện “xóm nghĩa địa” có gần 50 hộ dân với 200 nhân khẩu. Đa phần người dân ở đây là người nghề lao động chân tay, đàn ông làm thợ hồ, khuân vác, xe ôm… phụ nữ làm công nhân tại khu công nghiệp Tân Bình. Riêng những đứa trẻ một buổi đi học buổi còn lại đi bán vé số.
Ông Nghĩa (44 tuổi), một người dân sống trong xóm này vốn không có mảnh đất cắm dùi. Ông đành xây tạm một căn chòi nhỏ nằm trong nghĩa trang, cách đường Bình Long hơn 200 mét. Nhà chỉ có một cái giường, ông để dành cho vợ và con, đêm ông trải chiếu nằm phía ngoài, cạnh những nấm mồ. Sáng, ông cuốn chiếu và gối vắt lên một ngôi mộ trước nhà.
Hàng ngày người chết vẫn được mang đến đây an táng. Bên “nhà người chết” là đồ cúng, vòng hoa la liệt, hương khói nghi ngút. Bên nhà người sống, mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường. Những đứa trẻ chạy dọc theo lối đi giữa những ngôi mộ để thả diều, người lớn lại mang ghế nhựa, võng ra nằm trước nhà hóng mát, ăn cơm.
Nhà người sống nằm cạnh nhà người chết.
Một góc xóm nghĩa địa.
Mặt tiền nhà là mồ mả.
Phơi áo quần cạnh mồ mả.
Những đứa trẻ được sinh ra...
... và vui chơi, lớn lên giữa nghĩa địa.
Chiếc chiếu được vắt tạm lên mồ, tối về người lao động lại nằm ngủ cạnh người chết.
Chăn nuôi giữa nghĩa địa.
Kinh doanh nơi đất chết
Ngay trong khuôn viên nghĩa trang, nhiều loại hình kinh doanh ăn uống, vui chơi đã ra đời và vẫn thu hút được khách.
Buổi chiều là thời điểm đắt khách nhất. Người dân tận dụng những nơi nào có bóng mát từ các cây cổ thụ làm nơi buôn bán. Phía ngoài nghĩa trang, người ta bán mắt kính, balô, nón bảo hiểm… Bên trong, hàng quán cà phê, nước ngọt, bún, phở cũng mọc lên. Mọi thứ được bày bán giữa mộ, thậm chí có người dùng dây giăng giữa hai ngôi mộ để treo hàng.
Bà Mỹ, ngày trước bán thịt heo ở chợ Tân Hương nhưng hơn 2 năm nay đã dời sang nghĩa trang Bình Hưng Hòa. Bà giải thích: “Ở chợ rất nhiều sạp cạnh tranh nên bán không được nhiều. Ở đây thoáng mát, nằm kế bên đường Tân Kỳ - Tân Quý, lượng xe lưu thông rất nhiều nên tôi bán cũng được hơn”.
Hễ thấy có ai đi ngang qua, người bán lại rao hàng, chào mời. Kẻ bán người mua, “kì kèo bớt một thêm hai” làm cho không gian của người chết bỗng trở nên nhộn nhịp hơn.
Hàng quán cố định trong nghĩa trang Bình Hưng Hòa.
Những xe bán lưu động, mồ mả thành bàn ghế.
Nhang, hoa cúng được bán rất nhiều.
Hoặc buôn bán nơi xa, nhưng hết hàng họ vẫn quay về nấu nướng, chuẩn bị hàng trong nghĩa trang.
Câu cá và “tám” chuyện ma
Ở nghĩa trang Bình Hưng Hòa đang “nổi” lên dịch vụ "câu cá âm phủ". Chiều đến, hàng chục cần thủ lại tìm về khu “cõi âm” để câu cá thư giãn. Thời điểm thu hút nhiều cần thủ thường bắt đầu từ 5 giờ chiều và kéo dài hơn 10 giờ tối. Trong ánh sáng lờ mờ của đèn điện, người câu kẻ hóng mát trong không gian có tiếng gió rít qua những vòm lá. Bỗng đây thành cái thú vừa sang vừa “khiếp vía”, khiến nhiều người phát ghiền.
Khu vực nghĩa trang có hai cái hố lớn. Nước xung quanh nghĩa trang dồn về đây khiến hai hố trở thành ao. Cỏ đã mọc xanh và cá đã sinh sôi lớn lên ở trong hai hồ này. Nhận thấy địa thế này có thể làm ăn được, ông Tư (61 tuổi) đã xin chính quyền địa phương cho phép dựng lều, che bạt, mắc võng để kinh doanh dịch vụ câu cá thư giãn. Ông Tư đã mở dịch vụ câu cá “cõi âm” hơn 2 năm nay, giá từ 20.000 - 30.000 đồng/giờ câu.
Nếu như ở câu ở các con sông, kênh, ao hồ khác người đi câu sẽ mang cá về ăn. Tuy nhiên tại hồ “câu cá âm phủ” này, chẳng ai dám mang cá về nhà nói chi đến chuyện ăn. Do vào tháng Chạp năm ngoái, tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa một số người dân đi tảo mộ, cải táng phát hiện hàng chục cá trê, cá tràu khổng lồ núp trong mộ, nằm lỳ trong quan tài, có con lên đến 2 kg.
Điều này khiến nhiều cần thủ không dám mang cá về nhà ăn nữa, sợ đó là cá sống trong mộ. Những ai câu được cá có thể bán lại cho chủ dịch vụ câu cá với giá 20.000 đồng/kg hoặc thả lại hồ.
Dịch vụ câu cá cõi âm rất hút khách.
Nhiều người đến xem và hóng mát.
Mại dâm tại nghĩa trang
Đêm về, dọc tuyến đường Bình Long, Tân Kỳ - Tân Quý “bướm đêm” lại đứng khắp đường. Gái bán dâm ở đây đa phần là những phận nữ “quá lứa” tầm 40 - 50 tuổi. Những gái “mơn mởn xuân thì” ra mặt đường phồn hoa kiếm khách. Còn bướm đêm ở đây, trước kia phục vụ các quán cà phê, massage, karaoke trá hình nay đến tuổi đành lui “về vườn”, đứng giữa cõi âm để kiếm khách nuôi thân.
Thấy chúng tôi ngang qua, một cô gái từ phía nghĩa trang dùng đèn pin rọi vào thẳng mặt. Chúng tôi vừa dừng xe, một cô gái ngoài 30 tuổi liền hồ hởi bước ra thẳng thắn chào giá. Cô cho biết nếu khách muốn tiết kiệm có thể vào sâu nghĩa trang “hành sự”. Bên trong cô đã chuẩn bị một tấm bạt lót dưới nền đất. “Trời tối như mực, nghĩa trang chẳng ai dám vào, mấy anh cứ thoải mái, đừng lo", cô kèo nài.
Một tài xế xe ôm cho biết, tại nghĩa trang có hơn 30 gái bán “vốn tự có”. Mỗi đêm cô nào còn "ngon dáng" có thể tiếp được 3 - 4 khách. “Bạn hàng” của các nữ “bướm đêm” chủ yếu là những tài xế từ miền Tây chở hàng lên Sài Gòn rồi nghỉ chân, hoặc những nam công nhân tăng ca về khuya. Một cuốc “tàu nhanh” được các nữ thách 100 - 150 ngàn đồng, tuy nhiên khách hạ xuống tầm 50 ngàn đồng cũng được "chiều tới bến".
Theo lời kể của những người dân sống xung quanh, gái bán dâm ở đây thậm chí có cô đã mắc bệnh “si” (HIV/AIDS). Có cô cơ thể bắt đầu lở loét báo hiệu giai đoạn cuối.
Phía dưới là đường Bình Long, chạy dọc theo nghĩa địa. Tối, các cô gái bán dâm lại xuất hiện đón khách. (Ảnh chụp từ một ngôi nhà trên đường Bình Long)
Dường như, sau bao năm gắn bó cảm giác sợ ma quỷ của người dân gần như đã không còn nữa. Những hàng dương rủ bóng, lùa nhau xào xạc trong gió bên cạnh các nấm mồ trước là chuỗi âm thanh ghe rợn, giờ là âm thanh mát mẻ, thanh bình.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)