Kỷ Niệm 162
Năm Ngày Sinh Bác Sῖ Paul Marie Néis 28/02/2014
Bác sῖ Paul Marie Néis với Sur Les Frontières du Tonkin 1885-1887
A few lines of Note:
Tác phẩm Sur Les Frontières du Tonkin 1885-1887 của P.
Néis đã đến với tôi như trong một chuỗi định mệnh. Chuỗi định mệnh này bắt nguồn
từ nhiều năm tháng từ thời thơ ấu của tôi với những đam mê lịch sử khoa học chiến
tranh, toán học và sau đó những năm bước chȃn vào quȃn trường Võ Bị Quốc Gia nổi
tiếng của Việt Nam Cộng Hoà để rèn luyện những kiến thức chiến tranh. Chín năm
trong nhà tù cộng sản, tôi vẫn không lùi bước trau dồi học Anh ngữ và sau đó tốt
nghiệp chuyên ngành Computer Science khi tôi đặt chân đến Mỹ. Nếu không có sự
việc Việt cộng bán đất dâng biển cho Tàu, chắc chắn tác phẩm Sur Les Frontières
du Tonkin 1885-1887 chỉ là một bóng mờ không ai biết đến.
Từ ngăn cách một đại lục Bắc Mỹ và Ɖại Tȃy Dương bao la,
những may mắn đã khiến tôi vượt nghìn trùng xa cách mà tìm được tác phẩm trong
ngăn tủ của nhà sách tại Thái Lan để cống hiến cho người Việt Nam những bí mật biên
giới trong bóng tối, nổi bi thương của lịch sử của dȃn tộc Việt Nam và cũng
chính từ đȃy trong bóng tối mênh mang đã cho chúng ta thấy vận mệnh lịch sử tổ
quốc ta, nếu không có những cuộc chiến tranh mà người Pháp đẩy lùi quȃn Tàu về
bên kia biên giới thì ngày nay Việt Nam ta đã không còn toàn vẹn khi quȃn Tàu
tràn ngập Bắc Việt và đòi hỏi một biên giới cắt lìa Bắc Việt bằng con đường từ
Lào Kay đến bờ biển Ɖông.
Ɖiều này có nghῖa người Pháp đã có tội đối với dȃn tộc
ta, nhưng cũng có công lao đưa đất nước ta thoát khỏi chia cắt và thȃn phận chư
hầu đối với nước Tàu mà trong gần ngàn năm dȃn tộc ta không sao thoát khỏi.
Tuy nhiên, viết lại tiểu sử tác giả Paul Marie Néis,
chúng tôi không nhằm đề cao người Pháp, hay chính sách của người Pháp tại Việt
Nam. Tác phẩm Sur Les Frontières du Tonkin 1885-1887 liên quan vận mệnh dȃn tộc
Việt Nam trong giai đoạn khốc liệt khi người Việt Nam đứng trước thử thách và
hiểu biết trung thực lịch sử đường biên giới Việt-Tàu thì tác phẩm mang một giá
trị tuyệt đối không gì so sánh được. Chính vì thế Paul Marie Néis đã trở thành
một ân nhȃn, một người hùng của dȃn tộc Việt Nam. Vào những ngày tháng Hai năm
2014, chúng tôi viết lại tiểu sử của Paul Marie Néis như một sự vinh danh ông,
kỷ niệm 162 năm ngày sinh của ông và là sự biết ơn chȃn thành chúng tôi đối với
một người Pháp khôn ngoan, can đảm và tận tụy với những công việc hữu ích cho
dȃn tộc Việt Nam.
Sông Hồng
Sơ
lược những biến cố trong tháng 2, năm 1885 trên miền Bắc Việt Nam (Tonkin)
Tháng 2, 1885 tướng Negrier chỉ huy Lữ đoàn 2 trong chiến
dịch Lạng Sơn trong đó Quȃn Ɖoàn Viễn Chinh đã đánh đuổi quȃn Tàu rời khỏi các
trại hầm hố của chúng tại Ɖong Song và Bac Vie và đã chiếm lại Lạng Sơn.
Tướng Negrier hàng ngồi, người thứ nhất từ trái.
Ngay lập tức sau khi quȃn
Pháp chiếm Lạng Sơn, tướng Louis Brière de L’Isle trở về Hanoi với Lữ đoàn 1 của
Trung Tá Giovannielli để giải vȃy Tuyên Quang để lại Lữ đoàn 2 cho tướng
Negrier ở Lạng Sơn. Ngày 23 tháng 2, 1885 tướng Negrier từ Lạng Sơn tiến đánh đạo
quȃn Quảng Tȃy đang mất tinh thần ở Ɖồng Ɖăng, gần với biên giới Tàu, và đã
đánh tan quȃn Tàu ra khỏi Bắc Việt. Tướng Negrier đã vượt biên giới vào tỉnh Quảng
Tȃy và đã phá nổ tung cửa ải Nam Quan, chiếc cổng do người Tàu dựng lên để kỷ
niệm ở đèo Trấn Nam đánh dấu biên giới giữa Việt Nam và nước Tàu.
Phá xập cửa ải Trấn Nam (ải
Nam Quan)
Tướng Negrier đã dựng lên tấm
bảng gỗ trên đống vở nát của cổng Nam Quan trên đó ghi hàng chữ “Không cần phải
là những bức tường đá để bảo vệ biên giới, nhưng là sự thực thi trung thành những
hiệp ước.” Thông điệp này nhằm ám chỉ cuộc phục kích của quȃn Tàu ở Bắc Lệ
tháng 6, 1884, dưới mắt người Pháp đó là sự vi phạm quỷ quyệt của người Tàu về
các điều khoản hiệp ước Thiên Tȃn ký kết giữa Pháp và Tàu ngày 11 tháng 5, năm
1884.
Tướng Brière de L’Isle và
ban tham mưu trước giờ tấn công chiếm lại Lạng Sơn tháng 1, 1885 (ảnh bác sῖ
Hocquard)
Bác sῖ Paul Marie Neis sinh ngày 28 tháng Hai 1852 tại
Quimper, Finistère nước Pháp và mất ngày 4 tháng Ba năm 1907 trong nhà thương
quȃn đội tại Nice nước Pháp. Cha ông là Peter-Christian Neis (1819-1900) làm
nghề sành sứ tại Quimper thuộc quận Finistère, mẹ ông tên Josephine CORIOU
(1818-1877), ông được sinh ra trong gia đình với 10 anh chị em, và có hai đời vợ
Marie Lalour và N. Tourbiez tại Thổ Nhῖ Kỳ khi ông làm bác sῖ tại đȃy. Ông theo
học trường y khoa hải quȃn tại Brest 1871, bác sῖ hải quȃn năm 1873, bác sῖ hạng
nhất 1878, ông bắt đầu làm việc tại nhà thương Pháp ở Istambul rồi được gởi
sang Ɖông Dương năm 1879, ông phụ trách một sứ mạng khoa học tại phía nam
Annam, trên sông Ɖồng Nai, trong tỉnh Bình Thuận, Khánh Hoà, Bình Ɖịnh, Phú
Yên, miền núi, gần như không có cư dȃn, nhƯng rất nhiều cọp. Ɖược giao công việc
nhà thương quȃn đội tại Saigon, ông lợi dụng thời gian nhàn rổi để thám hiểm xứ
Mọi và đến tận nguồn sông Ɖồng Nai (1881). Trở thành bác sῖ hạng nhất, ông được
giao nhiệm vụ y khoa tại Côn Ɖảo, trở thành trưởng ban Y tế tại Ɖông Dương và đảm
trách sứ mạng của bộ Giáo dục công cộng
tại Bắc Việt và tại Lào 1882-1884 và đã viết lại chuyến hành trình trong
tác phẩm “Chuyến Hành Trình lên Thượng Lào.”
Ông được Bộ Ngoại Giao Pháp chỉ định là thành viên của Ủy
Ban Phȃn Ɖịnh biên giới Việt Nam và Tàu vào tháng 6, 1885 và theo dấu vết đường
biên giới giữa Lào Kay và Móng Cái. Bác sῖ P. Neis rời Marseilles ngày
20/09/1885 cùng với các ông Bourcier Saint-Chaffray, Ɖại úy Bouinais và ông
Delena đến Hà Nội ngày 1 tháng 11 1885. Hành trình lên biên giới Việt-Tàu bắt đầu
vào ngày 10 tháng 12 1885.
Paul Neis đứng hàng sau và người đầu tiên từ bên phải chụp
trong phái đoàn phȃn định biên giới. Trích trong tác phẩm Biên Giới Việt-Trung
1885-2000 Trương Nhȃn Tuấn, trang 64.
Năm 1885 ông nhận huy chương vàng của hội địa lý Paris. Ngày
26 tháng 6, 1887 từ Móng Cái, ông trở về Hà nội và rời Hà Nội vào vài ngày sau
đó để đi Hong Kong, ông chọn tuyến đường đi ngang Thái Bình Dương qua đường xe
lửa xuyên Canada và sau cùng đáp tàu đi xuyên Ɖại Tȃy Dương đến Le Havre ngày
23 tháng 7, 1887.
Năm 1899 ông xin đảm nhận chức vụ giám đốc nhà thương
dân sự Saint-Louis tại Senegal. Ông được trao tặng huy chương Lữ đoàn Danh dự,
và là một hội viện Hàn lâm Palmes.