Ɖȃy là email của một người mang nick xtanker20 viết về cái
chết của cố
Trung Tá
Võ Vàng, cựu
SVSQ/k17/TVBQGVN. Bài viết này nêu lên nhiều nghi vấn trong sự kiện mà chúng tôi chưa tiện nói ra, nhưng chắc chắn phải có một lý do quan trọng ngoài lý do mà nick xtanker20 cho là vì lời hứa đối
với người chết 39 năm trước. Tôi
đăng bài viết này của xtanker20 lên Blog quandiemvietnam.blogspot.com để rộng đường dư
luận, tham khảo và phȃn tích. Sự việc đã trôi
theo dòng lịch sử của những ngày dȃn Việt sống dưới chế độ Việt cộng gần 40 năm, nhưng những di lụy của nó không phải tàn lụi trong một sớm chiều.
Hoàng Hoa
Viettrade_net@yahoo.com
-----------------------
Kính gửi chị Đường, phu
nhân cố Trung tá Võ-Vàng
Tôi không còn nhớ mình đã từng kéo bàn phím
chiếc Computer ra bao nhiêu lần nữa, không phải để ‘check’ những ‘mail’ của bạn
bè xa gần gửi đến hay tìm kiếm vài thông tin cần thiết hầu bổ sung cho cái ‘nghề
tay trái’ đã nuôi sống bản thân và gia đình trong mấy chục năm qua, mà như muốn
viết lên một điều gì đó, một sự kiện gì đó đã xảy ra trong những đoạn đường đời
mình đã đi qua. Nhưng rồi, cứ mỗi lần nhìn đăm đăm vào chiếc màn hình trắng xóa
thì đầu óc lại không nhớ ra được mình phải gõ lên đó những gì dù vẫn có cảm
giác như có ai đó đã và đang hối thúc tôi ghi lại những gì đã chìm sâu dần
trong ký ức qua bao năm tháng dài tôi vừa phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày,
vừa phải lạng lách tránh những rình rập vô hình mãi đeo đẳng tôi cho đến bây giờ...
Rồi bỗng dưng, như một cơn
mưa bất chợt giữa ngày hè nóng bức, trong cuộc gọi chuyện trò bình thường gần
đây nhất với một người vừa là bạn, vừa là đàn anh trong quân ngũ, ở xa, không
biết có phải từ những ký ức anh ấy đang cùng với một người bạn gợi lại về quãng
đời lao tù trong những nơi Cộng Sản gọi là Trại Tù “Cải Tạo” mà thực chất là Trại
Tù Khổ Sai dành cho những Sĩ Quan của chế độ cũ, anh đột nhiên nhắc đến tên của
‘một người’. Lời nhắc này giống như tiếng gõ rất mạnh khiến ký ức tôi mở toang
cánh cửa đã vô tình đóng kín một lời hứa sau lời xin lỗi với ‘người ấy’ từ hơn
38 năm qua. Và tôi chợt liên tưởng đến những lần muốn kể lại điều gì đó từ lâu
đang cứ lảng vảng trong tiềm thức khiến tôi mãi ray rức, canh cánh trong
lòng....
Lời xin lỗi kèm theo lời hứa
với ‘người ấy’ đã chỉ được nói lên trong thầm lặng trong khi tôi và anh Chí
(Nhà trưởng thuộc Khối 1 của Trại Tù Kỳ Sơn vào khoảng giữa năm 1977) được lệnh
trực tiếp từ tên “Quản giáo” Nhà phải tường trình vụ ‘người ấy’ bị bắn chết,
hoàn toàn trái ngược với sự thật, ngược lại với những gì chúng tôi đã nghe bằng
chính tai và chứng kiến bằng chính đôi mắt của mình.
Từ trại tạm giam tại Điện
Bàn, Quảng Nam vào thượng tuần tháng 4/1975, sau khoảng gần 2 tháng và cũng sau
khi Sài Gòn thất thủ, chúng tôi bị chuyển lên Trại Kỳ Sơn, Bồng Miêu (Tam Kỳ,
Quảng Tín). Từ lúc xe lăn bánh, chúng tôi (số Sĩ quan cấp Tá) đinh ninh sẽ bị đưa
ra các trại giam ngoài Bắc (theo tin đồn). Nhưng khi ra đến Quốc Lộ 1 thì đoàn
xe quẹo trái hướng về nam khiến chúng tôi không thể nào đoán được mình sẽ bị đưa
đến đâu. Dọc đường, tôi chỉ biết theo dõi những điểm đoàn xe đã đi ngang qua và
nhớ lại rất rõ từng địa danh, vì là vùng trước kia đơn vị tôi đã từng vượt qua
trong những lần hành quân (từ cuối 1969 đến giữa 1971).
Đoàn xe đến Tam Kỳ thì quẹo
phải về hướng núi và tiếp tục trên con đường đất rộng khoảng 6-7 mét, lạ hoắc với
tôi. Lúc này tôi chỉ còn theo dõi cảnh vật gần xa dọc 2 bên đường mà thôi.
Khoảng hơn 50 phút sau, (hồi
đó, hầu hết tù binh chúng tôi đều còn mang đồng hồ, vì tại trại Điện Bàn hằng
ngày chỉ nghe giảng thuyết về tư tưởng Cộng Sản chứ không bị buộc lao động)
đoàn xe chở chúng tôi dừng lại trước một khu trại đã có sẵn mấy chục căn nhà lợp
tranh và chúng tôi được lệnh xuống xe vào trại.
Chúng tôi bị chia thành từng
toán, mỗi toán gốm 25 người, không phải theo danh sách đã có sẵn mà do ngẫu
nhiên, tức là tự động sắp thành từng hàng dọc và ai muốn bước vào hàng nào thì
cứ việc, miễn sao đủ 25 người là được. Sau đó, một người trong mỗi toán mới ghi
tên họ những người trong toán, làm thành từng danh sách. Và mỗi toán sẽ ở trong
cùng một căn nhà; mỗi 4 Nhà (ngoài Bắc gọi là Buồng) thì thành một Khôi. Và Trại
chúng tôi có tên là Trại 1. Sau đó mới biết Tổng Trại Tù Kỳ Sơn gồm cả Trại 2,3
và 4 nằm quanh quẩn cách Trại 1 chừng 3 hay 4 km do Bộ đội quản lý. Ngoài ra
còn có một Trạm xá nằm đối diện hơi chênh về phía phải với Trại 3 nhưng ở phía
bên kia con lộ chính, sâu vào khoảng 30 mét.
Nhà chúng tôi thuộc Khối 1
gồm hầu hết là Trung tá và Thiếu tá, chỉ có 4 hay 5 Đại úy. Tôi chỉ còn nhớ một
số tôi còn ấn tượng do thường chuyện trò, cùng toán đi lao động hay ngủ cạnh
nhau trên một dãy sạp bằng tre:
- Cấp Trung tá có Ngô-Hoàng
(SĐ2BB, người Huế), Ng-văn-Tố (từng là Tỉnh trưởng Phú Yên, người Huế),
Ng-văn-Thành (Liên đoàn trưởng Địa phương Quân, người Huế), Võ-Vàng (gốc Biệt Động
quân, người Quảng - gọi chung cho Quảng Nam và Quảng Ngãi), Thuật-Xáng (CTCT/QĐ
1, người Huế ), Cẩn (P.Binh, người Quảng-Trị), Liên (K.Quân, người Nam), Chí
(Truyền tin, người Bắc), v.v...
- Cấp Thiếu tá có Khoa (
P.Binh, người Huế), Bảo (P.Binh, người Bắc), Cảnh (B.Binh SĐ 2, người Huế), Cúc
(Ban 2 Tiểu khu Q.Nam, người Quảng ), Hiển (C.Sát, người Huế), tôi (Kỵ Binh, người
Huế),v.v...
- Và cấp Đại úy có Chí, Hóa
(C.Binh, người Huế), Ninh (Ban 2 C.Khu Q.Tín, người Quảng ), v.v...
Mỗi Nhà bầu một Nhà trưởng,
và chúng tôi đã bầu anh Chí (để phân biệt với anh Chí cấp Trung tá, chúng tôi
thường gọi anh là Chí ‘nhỏ’). Mỗi Nhà do 1 Quản giáo trách nhiệm. (theo như tôi
để ý, hầu hết Quản giáo đều là người Quảng). Riêng về Khối thì anh Ngô-Hoàng
(do Cán bộ chỉ định) làm Khối trưởng Khối 1. Từ đó chúng tôi dần dần làm quen với
nhau và cũng từ nơi này chúng tôi bắt đầu nếm mùi vị của tù lao động khổ sai.
Hàng tháng, chúng tôi phải
“học tập Chính trị”, thường thì theo từng toán gồm ½ Nhà (khoảng 12 hay 13 người),
do” Quản giáo” hướng dẫn. Có lúc ½ nhà học chính trị và ½ Nhà còn lại đi lao động.
Và mỗi 2 hay 3 tháng thì toàn Trại học tại Hội trường do 1 tên chính trị viên từ
cấp cao hơn đến phụ trách.
Khoảng hơn 3 tháng sau, gia
đình, thân nhân được phép đến thăm tù nhân theo định kỳ mỗi tháng 1 lần tại một
căn nhà tranh lớn và tương đối rộng, dựng trên một ngọn đồi thấp, chung quanh
là những bụi cây nhỏ cao khoảng hơn 1 mét, ngay ngả ba của đường vào trại 1,2 và
3 (Trại 3 nằm trên cùng một con lộ với Trại 1), cách Trại 1 chúng tôi khoảng 3
km, gọi là Trại Tiếp tân.
Cũng nhờ vào những lần thăm
viếng này mà chúng tôi được cung cấp thông tin về tình hình bên ngoài của một số
địa phương kèm theo một ít thức ăn, nhất là đường (loại bánh đường đen hay những
miếng đường màu vàng, thứ mà chúng tôi thèm, nhất là trong thời gian lao động nặng).
Khoảng hơn 1 năm sau, sự kiện
đầu tiên đã xảy ra, không phải tại các Trại tù mà ngay tại Trạm xá của Tổng trại
:
Bác-sĩ Phạm-văn-Lương (nghe
nói trước năm 1975 đã từng cầm lựu đạn đến tại cửa tòa nhà Quốc Hội để chống đối
Chính Phủ) đã tự vẫn bằng thuốc chống sốt rét ‘Chloroquine’.
Sau này một vài người trong
nhà chúng tôi được vài tù nhân phục vụ tại Trạm xá kể lại về cái chết vật vã bằng
loại thuốc này thật khủng khiếp: trước khi chết, anh đã điên cuồng búng người từ
sạp này đến sạp khác, quằn quại rồi co quắp một hồi mới tắt thở. Họ cho biết
thêm là khoảng 1 tháng trườc đó, sau lần gần nhất được vợ con đến thăm, anh Lương
đã tỏ vẻ buồn bực, ít nói hơn. Điều suy đoán tương đối hợp lý cho lý do này là
từ những thông tin do gia đình những tù nhân quen biết và sống gần gia đình anh
Lương đã cho biết sự thật rất phũ phàng : vợ anh phải đi bán dạo quanh chợ Cồn
(Đà Nẳng) để nuôi con. Rồi những lời bàn tán của tù nhân đã đến tai anh. Và thế
là ‘Xã hội lý tưởng’ trong anh rách nát, ‘Thiên đường Cộng Sản’ trong anh vỡ vụn.
Vì không chịu được cú sốc này, anh đã tự kết liểu đời mình.
Sự kiện thứ 2 đến từ những
buổi “học Chính trị”, nói đúng hơn là những lần phải kể lại lý lịch và cái được
mô tả là ‘tội ác’ của tù nhân đối với ‘Nhân dân’ và “Cách mạng”. Mỗi lần học,
chúng tôi phải khai lại lý lịch, không phải viết trên giấy mà phải tự phát biểu.
(nhờ vậy mà về sau, chúng tôi biết anh Ngô-Hoàng có thân nhân tập kết đã vào
Nam với chức vụ cao; anh Võ-Vàng có người anh là “Trung tá Bộ đội” và anh Cúc
có cha là “Đại tá Bộ đội”. Tất cả những thông tin bổ sung này có lẽ là do gia
đình họ đã cung cấp trong những lần ‘thăm nuôi’).
Riêng về mục kể ‘tội ác’
thì chúng tôi, nhất là những người đã ở trong đơn vị tác chiến, phải nhớ thêm
và nói cụ thể hơn số lượng Việt cộng (du kích, đơn vị địa phương hay bộ đội
chính quy) đã bị chúng tôi giết trong những lần hành quân nào, tại những nơi
nào, vào những thời điểm nào. Dĩ nhiên, chúng tôi vẫn nhớ chính xác một số yếu
tố, còn về số lượng thì phải khôn ngoan nói càng ít càng tốt để tội được nhẹ hơn.
Riêng về anh Vàng, khi anh phát biểu, ngoài tên “Quản giáo” của Nhà chúng tôi
còn có tên “Quản giáo” của Nhà bên cạnh (cũng là người Quảng) cũng bước qua
tham gia. Giọng điệu tên này thì ghê gớm và chứa nhiều hận thù hơn.
Qua những lần đó, tôi mới
biết thêm thông tin cá nhân của anh Vàng (khóa 17 VBQGĐL), trong đó những chiến
công của anh hồi còn làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 21 thuộc Liên đoàn 1 Biệt Động
Quân và sau đó là Trung đoàn trưởng Trung Đoàn 4 hay 5 gì đó thuộc Sư Đoàn 2 BB
đã rất vang lừng. (Tôi thì nhập ngũ sau anh mấy năm và chỉ hành quân ở vùng Bắc
đèo Hải Vân đến Bến Hải. Và thời gian đơn vị tôi nằm ở Đà Nẵng đã hành quân
chung với Liên đoàn 1 BĐQ tại vùng Thăng Bình, Quế Sơn và Bình Giang, Bình Dương
năm 1970 thì tôi không gặp được anh mà chỉ gặp anh Khang - Tiểu Đoàn 39, anh
Thiết và anh Thưởng - Tiểu Đoàn 21 và 37 và Trung tá Hiệp là Liên Đoàn trưởng).
Do đó, mũi dùi của đám “Quản giáo” này nhắm vào anh nhiều nhất (có lẽ do vùng
hành quân của đơn vị anh thuộc Quảng Nam và Quảng Ngãi).
Vào khoảng gần giữa năm
1977, trong buổi học chính trị cho toàn trại tại Hội trường, tên Chính trị viên
(người Quảng), không biết từ cấp cao nào đến phụ trách, bô lô ba la gần cả giờ
về đường lối chính sách của Đảng, tương lai đất nước, v.v... Rồi đến mục khuyên
tù nhân thành thật khai báo về ‘nợ máu’ chúng tôi đã gây ra. Nó đã chuyển cụm từ
‘tội ác’ thành ‘nợ máu’, nghe càng rùng rợn hơn. Tôi tự hỏi: ‘Như vậy, nợ máu
thì phải trả bằng máu sao ?’
Sự kiện thứ 3 đã xảy sau buổi
học chính trị toàn trại chỉ khoảng 2 tuần.
Hôm đó là ngày Chúa Nhật và
cũng là ngày gia đình tù lên thăm nuôi. Khoảng 8 giờ sáng, Nhà chúng tôi có anh
Vàng được tên vệ binh Bốn đến gọi ra sắp hàng tại cổng trại cùng với số anh em
tù từ các Nhà và Khối khác để nó dẫn ra Trại tiếp tân. Toán thăm nuôi đầu tiên
thường được gọi là Toán 1. Khoảng 30 phút sau, tôi cũng được gọi tên ra sắp vào
một toán khác gọi là Toán 2 và được một tên vệ binh người Bắc dẫn đi. Khi toán
chúng tôi ra đến Trại Tiếp tân thì mạnh ai nấy kiếm chỗ riêng để cùng gia đình
trò chuyện, một số ngồi trong trại, một số chọn những bụi cây quanh đó ngay
phía bên ngoài trại cách khoảng 10 mét. Thời gian thăm nuôi chỉ được kéo dài 1
giờ theo qui định. Và hôm nay thì tên Quản giáo phụ trách Trại Tiếp tân là người
Bắc, không biết thuộc Khối nào.
Chỉ khoảng gần 15 phút sau,
tôi nghe tiếng tên Bốn gọi tập họp Toán 1 để nó dẫn về. Và khoảng 3 phút sau,
tôi lại nghe tiếng quát tháo khiến anh em đang ngồi quanh đó đều đứng lên, còn
tôi thì bước nhanh đến đó, thấy khoảng 8 người đang đứng sắp hàng chờ điểm danh
và kiểm tra những thứ gia đình họ mang lên thăm nuôi, riêng anh Vàng thì đang đứng
đối mặt với tên Bốn, nói :
- “Tôi đã xin phép anh Quản
giáo được thăm nuôi thêm một xuất nữa.”
Tên Bốn quát :
- “Anh không chịu vào sắp
hàng thì tôi bắn đấy!”
Nói xong nó cầm súng, lên đạn
rắc rắc và chỉ thẳng vào anh Vàng. Anh em quanh đó, ngay cả tôi, đều nghĩ rằng
anh Vàng sẽ phải nhịn nhực và đứng vào hàng. Không ngờ anh dùng 2 tay banh ngực
áo và nói lớn :
- “Muốn bắn thì bắn đi!”
Cũng may tên “Quản giáo” người
Bắc đến vừa kịp, nói ngay:
- “Anh Vàng đã xin phép tôi
thăm nuôi thêm một xuất. Và anh ấy sẽ về theo Toán 2”.
Tên Bốn hạ súng xuống một
cách miễn cưỡng, đôi mắt nó vẫn đỏ ngầu trên nét mặt đầy hậm hực, khoát tay ra
lệnh cho Toán 1 bắt đầu đi về, không nhớ đến việc điểm danh và kiểm tra mấy chiếc
bị của tù. (Thật ra thì chỉ là toán ít người, còn việc kiểm tra thì có thể thực
hiện sau khi toán vào cổng trại.)
Cũng chính từ sự kiện này,
tôi để ý đến tên Bốn nhiều hơn, vì chưa từng nghĩ rằng một tên Việt Cộng (không
biết là du kích hay bộ đội chính quy vì màu sắc áo quần của nó là màu xám mà áo
quần bộ đội là màu olive) mặt mày còn non choẹt, tuổi đời tối đa khoảng 22-23,
nhỏ con, mà lại ‘khát máu’ như vậy. Và cũng chính từ đây, tôi thán phục anh Vàng
nhiều hơn. Thán phục vì anh đã làm được điều mà tôi, hay đúng hơn là chúng tôi,
không thể làm được, dù cho hành động của anh có xuất phát từ lòng tự ái hay sự
bộc phát nào đó thì cũng vẫn thể hiện sự bất khuất của một Sĩ Quan Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa trước kẻ thù trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng này.
Thú thật thì trước đó tôi
đã có phần ngưỡng mộ anh về những chiến công anh đã kể lại trong những buổi học
chính trị nên tìm cách trò chuyện với anh nhiều hơn, dù biết anh rất ít nói.
(người tôi thân nhất trong Nhà là anh Tố và vì anh lớn tuổi hơn nhiều nên tôi
thường gọi anh là ‘Bố’). Có lẽ anh cũng hơi thích tôi do tôi là người hay kể
chuyện vui, bông đùa và cười lớn tiếng thoải mái nhất trong Nhà. Nhờ vậy mà tôi
biết được vợ anh tên Đường, là Giáo viên trước 1975.
Thế rồi, sau khoảng hơn 1
tháng, lúc này trong năm, thời tiết vào khoảng cuối mùa Hè nên không quá nóng
như tại những vùng Huế, Quảng Trị và Đông Hà, một phần là do các trại tù đều nằm
trong vùng núi, vào một buổi sáng, sau khi anh Chí ‘nhỏ’ (Nhà trưởng) đi họp nhận
công tác cho Nhà về, vác theo một bao bố chứa những con ‘dao tông’ và ‘rựa’ và
cho biết hôm nay cả Nhà sẽ lao động tập thể. phát quang tại vùng Cò Bay (đường
lên Mỏ vàng Bồng Miêu). Chúng tôi ăn sáng với chế độ ít hơn 1/3 với bữa ăn trưa,
rồi lần lượt bới theo cơm trưa chứa trong ‘lon Gô’ (loại bằng nhôm đựng sữa bột
Guigoz của Hà Lan dành cho trẻ sơ sinh đến 2 tuổi, khuấy tan với nước nóng để
bú bằng bình hay bằng ly, tách), một số thì dùng ‘gà men’ của Quân đội được
thân nhân mang lên trong những lần thăm viếng tại ‘Trại Tiếp tân’. Rồi lần lượt
xuống ‘Nhà bếp’ lấy nước sôi đổ vào bidon’(bình nhựa chứa nước của Quân đội).
Những người trẻ như tôi, anh Vàng, anh Thành, Chi, Hóa, Ninh, Cảnh thì nhận
‘dao tông’(loại dao dài gần 5 tấc với cán dính liền bằng sắt dùng để chặt những
cây nhỏ bằng bắp tay), người lớn tuổi thì nhận ‘rựa’ (loại dao dài chừng 7 tấc
gồm luôn cán bằng gỗ dài khoảng 3 tấc, đầu rựa có mấu cong xuống, dùng để chặt
tre, phát quang lau sậy, vót lạc, chẻ mây, và nhiều công dụng khác nữa); rồi lần
lượt mài dụng cụ trên 2 tảng đá nhỏ đặt sau Nhà (chúng tôi vác chúng lên từ suối
để tiết kiệm thời gian phải xuống suối mài trước khi đi lao động). Tiếp đến,
chúng tôi được chia thành 2 toán, mỗi toán có 12 người. (riêng anh Cúc thì thuộc
thành phần không lao động ngoài trại được do gót chân đã bi thương trước khi
vào Trại nên thường ở nhà trực phòng, - một vài người trong Nhà của chúng tôi
nghi ngờ anh làm ‘antenne’ vì chính bản thân tôi đã bị 2 lần viết ‘Kiểm điểm’
do có người báo cáo tôi phát ngôn bừa bãi trong những lúc chuyện trò với anh em
ngay tại Nhà. Ví dụ như tôi đã đổi câu châm ngôn của họ : ‘Cho không lấy, thấy
không xin’ thành ‘Không cho cũng lấy, không thấy cũng xin !!’...).
Đa số người trong Toán 1
chúng tôi có cấp bậc Thiếu tá và Trung tá trong đó có anh Võ-Vàng, cấp Đại úy
chỉ có anh Chí và Hóa. Hành trang lao động là chiếc bị vải tự tạo có quai mang
vai (có người được thân nhân gửi lên bao đeo mặt nạ ngừa hơi độc của Quân đội),
chứa bình nước, bữa ăn trưa, võng nylon hay vải và tấm nylon dùng làm áo mưa.
Đúng 07:30, Nhà chúng tôi bắt
đầu di chuyển theo hàng dọc ra cổng trước của Trại, ngay con lộ lên Bồng Miêu,
(cổng sau dẩn thẳng ra con suối cạn, rộng khoảng 40 mét, chảy ngoằn ngoèo theo
dảy núi phía đối diện, chỉ dùng cho những lúc đi lao động nặng, riêng lẻ hoặc
toán ít người và là nơi tắm rửa, giặt giũ), quẹo phải lên hướng vùng Cò Bay
theo con lộ đất rộng khoảng 4-5 mét. Dẩn đầu là tên vệ binh Bốn (người Quảng)
và sau cùng là một vệ binh (người Bắc, tôi không nhớ tên). Cả hai đều mang
AK-47. (Thường thì khi tù binh đi lao động ngoài trại với những toán trên 5 người
đều có vệ binh đi theo, khi thì 1 người, khi thì 2 người).
Thời tiết hôm đó vào buổi
sáng vẫn còn mát mẻ dù mặt trời đã lên khá cao nhưng bị dãy đồi cao phía đông
che khuất. Trong khoảng hơn 2 năm, chúng tôi đã từng đi trên con lộ này không dưới
20 lần nên cảnh vật chung quanh chẳng còn gì xa lạ nữa, ngoại trừ đám lau sậy
và cây nhỏ dọc mé trái lộ đã được phát quang ngày càng xa dần lên hướng Cò Bay.
Chúng tôi đi khoảng hơn 3
km, đến hết ranh đám lau sậy đã được phát quang, thì tên vệ binh Bốn hô lớn bảo
dừng lại và kêu anh Chí lên ra lệnh gì đó. Mấy phút sau thì nghe Chí bào toán 2
tạt về mé trái con lộ và chỉ định anh Ninh làm trưởng toán với nhiệm vụ phải
phát quang dọc bên trái lộ lên hướng Cò Bay. Từ điểm này lên hướng Tây nam thì
vẫn còn đầy lau sậy cao hơn đầu người hơn 1 mét.
Toán 1 của chúng tôi cứ tiếp
tục đi xa hơn khoảng hơn 300 mét thì được lệnh dừng lại và nhận nhiệm vụ phát
quang phía bên trái con lộ, sâu vào khoảng 40 mét rồi chuyển hướng dọc theo con
lộ lên hướng núi có Mỏ Vàng. Ra lệnh xong, tên vệ binh Bốn và tên vệ binh người
Bắc tiếp tục đi thẳng về phía trước. Theo kinh nghiệm từ những lần đi lao động
và những khi được giao nhiệm vụ đi theo phát quang cho toán địa chất lên các lò
của Mỏ Vàng Bồng Miêu, (thường thì 2 tù binh đi theo để phát cây dọn đường cho
toán địa chất gồm 3 hay 4 Kỹ sư có mang súng ngắn ) tôi đoán khoảng 80 mét nữa
là đến chiếc cầu xi măng nhỏ, rộng khoảng 2 mét, dài khoảng 8 mét bắc qua con
suối thường hầu như cạn nước vào mùa hè, vì phía trước khoảng 30 mét đã hiện ra
khúc quanh quẹo chênh về trái. Phía bên bờ Nam của suối cũng đầy lau sậy dày đặc
chạy dài khoảng 300 mét thì đến vùng trống trải có những căn nhà gạch đã rêu
phong, tốc mái, đổ nát trên 60%, cạnh một nhánh suối nhỏ vẫn còn những bụi trúc
vàng rất đẹp hai bên bờ. Đặc biệt nơi này còn sót lại vài đoạn đường ray rộng
khoảng 8 tấc và dài khoảng 20-30 mét. Nghe đám địa chất nói thì đây là những di
tích hồi Pháp khai thác mỏ vàng.
Chúng tôi kiếm những cây nhỏ
sát con lộ, chặt nhánh nhỏ, chừa một đoạn ngắn chỉa ra để treo những chiếc bị
và bắt đầu dàn hàng ngang phát trống lau sây sâu vào chân dảy đồi khoảng 40 mét
rồì đổi hướng phát dọc theo con lộ.
Dù có được khoảng 10 để uống
nước và giải lao sau khoảng 1 giờ lao động (nhờ anh Chí ‘lớn’ và anh Tố vẫn
luôn mang theo đồng hồ đeo tay trong túi quần. Còn phần lớn thì đã gửi về cho vợ
bán lấy tiền nuôi con), chúng tôi cũng cố làm sao để phát quang một diện tích
đáng kể trong ngày, nếu không thì mấy tên vệ binh sẽ báo báo là lao động không
tích cực và bị làm kiểm điểm. Mặt trời lên cao dần, giáng xuống đầu và lưng
chúng tôi những luồng nóng rát hừng hực khiến mồ hôi liên tục búng ra đẫm ướt cả
áo và mặt như đang đi trong mưa. Cho đến khi mặt trời gần đứng bóng, chúng tôi
nghỉ khoảng 1 giờ để ăn bữa trưa chứa trong bị mang theo. Mỗi tụm 2 hoặc 3 người
cố tìm một bóng cây nào quanh đó để tránh nắng nhưng quả thật rất khó. Chỉ còn
cách chui đại vào những lùm sậy rồi dùng rựa phạt đứt sậy cao ngang đầu người
và dùng chiếc võng mang theo căng phủ lên phía trên tạo bóng dim bên dưới và mở
lon cơm chừng 1 chén với ‘mắm cái’ và ngấu nghiến, mơ màng tưởng tượng một bữa
ăn thịnh soạn để đánh lừa bao tử. Ăn xong thì xé giấy báo vấn một điều thuốc
‘rê’, dựa lưng vào bụi sậy, vừa phì phà vừa trao đổi vài nhận xét bâng quơ cho
có chuyện mà thôi.
Khoảng 1 giờ chiều, chúng
tôi tiếp tục gò mình vào công việc còn dang dở. Đến khoảng 2 giờ, chúng tôi mới
nghỉ giải lao được khoảng 5 phút thì tên vệ binh Bốn và tên vệ binh người Bắc từ
hướng Bồng Miêu đi về. Tên Bốn bèn nói lớn :
“Anh Chí cho tôi 1 người
lên phía trước để chặt những cây lau về bó làm chổi quét”.
Nghe tiếng nói, chúng tôi
ngừng tay và nhìn Chí. Dĩ nhiên, nếu chặt lau sậy thì phải dùng rựa, vì khi chặt
được một số lau thì dùng mấu rựa kéo về đằng sau. Tôi thấy Chí chỉ vào anh Xáng
đang cầm cây rựa cạnh anh và nói :
- “Anh Xáng theo mấy anh vệ
binh lên phía trước chặt lau đi !”.
Anh Xáng bèn bước đến một
cây nhỏ gần đó lấy chiếc bị hành trang có mang nước theo để uống. Bỗng nhiên
tên vệ binh Bốn cản lại và nói :
- “Anh lớn tuổi rồi nên chặt
không nhanh. Anh đổi cây rựa cho anh này nè - vừa nói nó vừa chỉ tay vào anh
Vàng đang cầm dao tông”.
Thế là anh Xáng và anh Vàng
đổi dụng cụ cho nhau và anh Vàng đến lấy hành trang rồi đi theo 2 tên vệ binh.
Chúng tôi đều nghĩ rằng đây chỉ là chuyện bình thường... rất bình thường. Hợp
lý nữa là khác. Và chúng tôi lại tiếp tục công việc, cố làm sao để khi tối đến,
sau khi cơm nước, họp bình bầu cá nhân xuất sắc tại Nhà mà khỏi bị làm kiểm điểm.
Thật ra thì những hình thức lao động toàn Nhà như thế này, việc nhận xét ‘tích
cực’ hay ‘tiêu cực’ đều do sự cao hứng của vệ binh đi theo mà thôi.
Khoảng hơn 10 phút sau,
chúng tôi bỗng nghe 3 tiếng nổ đoàng đoàng đoàng liên tiếp, nhưng từng phát một,
ở phía trước, chắc chắn là từ súng AK của 2 tên vệ binh. Tôi buột miệng cười
nói: - “Chắc là con nai nào xui xẻo đã bị hạ rồi. Tối nay thế nào mỗi người
cũng đều có 1 miếng thịt bồi dưỡng”.
Nghe thế, tôi thấy mấy anh
còn lại cũng mỉm cười tỏ vẻ đồng tình. (Vì thỉnh thoảng chúng tôi cũng đã từng
được bồi dưởng bằng thịt heo rừng hay nai).
Đúng là đã hơn 2 năm rối mới
nghe lại tiếng súng nên lúc đầu ai cũng hơi hốt hoảng, ngay cả bản thân tôi đã
từng là dân tác chiến cũng có chút bàng hoàng, nhưng chỉ trong vài giây thoáng
qua. Chúng tôi lại tiếp tục công việc.
Khoảng 5 phút sau, tên vệ
binh Bốn, từ phía trước trở về, cách chúng tôi chừng 10 mét, đã kêu lớn :
- “Anh Chí ! Kêu thêm một
anh nữa lên phía trên này ngay, không cần mang theo dụng cụ”.
Mọi người lại dừng tay.
Riêng tôi thì thầm nghĩ : ‘Không lẽ mình đã đoán đúng ?’ Chí liếc nhìn quanh và
đột nhiên gọi tôi (đang đứng trong hàng ngang cách xa anh 2 người về phía bên
phải, gần con lộ):
- “Anh X... bỏ dao xuống và
theo tôi”.
Vẫn là điều bình thường...
rất bình thường !! Tôi và Chí bước nhanh để theo kịp tên vệ binh Bốn. Đúng là
chỉ khoảng 70 mét, chúng tôi đã thấy chiếc cầu xi măng bắc qua con suối và tên
vệ binh người Bắc đang đứng trên cầu. Chúng tôi đến cách cầu chừng 6-7 mét (tại
điểm này thì mé trái con lộ đã vừa mới được phát quang sâu khoảng hơn 1 mét,
còn sót lại một cây cao, nhỏ và thẳng, trên cành thấp nhất còn lủng lẳng chiếc
bị của anh Vàng) thì tên Bốn chỉ tay xuống suối, phía bên trái cầu và nói :
- “Hai anh xuống dưới đó đi
!”.
Chúng tôi cũng vẩn đinh
ninh một con nai đã bị bắn hạ ngay dưới suối nên vội tạt trái, vừa bước vừa
nhìn xuống chân, thận trọng để khỏi dẩm phải những gốc sậy bén. Đến được bờ suối
thì cảnh tượng trước mắt hiện ra giống như một chiếc búa tạ, đập tan vụn những
ý nghĩ lạc quan đang nhảy múa trong đầu óc chúng tôi rồi nhét thay thế vào đó sự
sợ hãi, thảng thốt : cách chúng tôi khoảng 3 mét, không phải là xác con nai mà
là anh Vàng đang nằm sấp, mặt úp xuống bờ cát của lòng suối còn ẩm nước, tay phải
hơi giang ra và bàn tay còn nắm lơi một phần cán rựa, chân hướng về phía chúng
tôi. Tôi cảm thấy như có một luồng khí lạnh từ nổi sợ len lỏi vào dọc xương sống,
còn Chí thì mặt mày tái nhợt hẳn ra, cùng ngước nhìn lên tên Bốn đang đứng trên
cầu, cách chúng tôi khoảng hơn 4 mét theo đường huyền hình tam giác. Có lẽ thấy
chúng tôi ngập ngừng không dám bước tiếp, nó dùng súng quơ quơ ra dấu bảo chúng
tôi đi tiếp đến chỗ anh Vàng. Tôi, dù muốn dù không, là dân tác chiến nên tốc độ
lấy lại bình tĩnh chỉ trong mấy giây, bèn đi trước đến sát chân anh Vàng và thấy
ngay trên lưng áo của anh đã bị 3 lổ thủng nằm dọc từ hơi dưới vai trái xuống gần
thắt lưng bên phải, giống như 3 trái bi trên bàn bi-da Pháp nằm theo thế ‘giò
gà’ vậy. Tôi bảo Chí đang đứng phía sau :
- “Chí hãy lên phía đầu của
anh Vàng rồi cùng nhau lật ngửa anh ra mới khiêng lên trên con lộ được.”
Chí và tôi vừa lật ngửa anh
Vàng ra thì đột nhiên anh mở đôi mắt, thấy anh Chí và thểu thào kêu lên :
- “Chí ơi !...”
Có lẽ trước khi chết, anh
đã cố gom hết sức lực để nói lên điều gì đó nhưng chỉ được hai từ ngắn ngủi
này, cho nên, dù là thều thào nhưng có lẽ cũng đủ cho 2 tên vệ binh trên cầu
nghe, hay có lẽ chúng đã thấy đôi môi anh mấp máy và ngỡ anh vẫn còn sống, muốn
nói gì đó, nên tên Bốn hét lớn :
- “Hai anh tránh xa ra !”
Tôi giật mình phóng người
ngược ra phía sau và té ngửa, còn Chí thì chạy lui rất nhanh. Tôi vừa ngồi dậy
và liếc nhìn lên cầu thì một loạt đạn tóe lửa từ súng AK của tên Bốn nhắm vào đầu
anh Vàng. Tôi thấy đầu của anh giật giật mấy cái rồi im luôn. Tôi lại đảo mắt
nhìn lên cầu lần nữa và thấy tên Bốn, sau khi bắn xong, thản nhiên mang quai
súng lên vai cùng tên vệ binh người Bắc song song bước nhanh về hướng cũ. Tôi vẫn
ngồi như thế, ngoái nhìn theo cho đến lúc chúng đi khuất sau đám lau sậy mới đứng
lên và bước đến gần anh Vàng. Trong loạt súng vừa rồi, có lẽ khoảng 2 hay 3
viên đã trúng làm nát luôn má và miệng của anh, máu chảy lênh láng. Chí thì
hình như vẩn chưa hoàn hồn. Tôi bèn bảo Chí :
- “Chí ở lại đây trông chừng
để tôi chạy về báo cho anh em trong toán mình biết.”
Chí bỗng nói ngay :
- “Anh ở lại đây để tôi chạy
về báo tin cho.” Tôi thấy anh còn sợ nên đành gật đầu.
Chờ cho Chí đi rồi, tôi cẩn
thận nhìn quanh khoảng một phút, có lẽ vì sợ tên Bốn bất ngờ quày lại tặng luôn
mình một loạt đạn để bịt miệng, rồi nhìn lại anh Vàng thì thấy hai mắt anh vẫn
còn mở, bèn đưa tay vuốt mắt anh mà lòng dậy lên nỗi đau buồn đã mất đi một người
bạn tù, một người anh trong Quân ngũ.
Chưa đến 10 phút sau, tôi
thấy mấy anh xuất hiện từ sau đám lau sậy rồi nhận ra anh Tố, anh Hoàng và anh
Hóa cùng Chí đến gần chỗ tôi. Có lẽ dọc đường đến đây, Chí đã có kể lại một phần
nào đó cho họ nghe nên khi đến nơi, chúng tôi chỉ cùng nhau nghĩ cách khiêng
anh Vàng về. Liên tưởng đến lúc Trại có người bị bệnh không đi được thì đã được
khiêng bằng võng đến trạm xá, tôi bèn đề nghị như thế và cùng Hóa chạy đến cây
có treo chiếc bị của anh Vàng để lấy chiếc bị có chứa chiếc võng của anh, đồng
thời chặt luôn cây này, tỉa nhánh cho trơn tru dùng làm đòn cáng. Tiếp đến, anh
Tố và anh Hoàng khiêng xác anh Vàng bỏ lên võng và chúng tôi cột dây của 2 đầu
võng thật chặt vào đòn cáng. Anh Hoàng và anh Tố tình nguyện khiêng anh Vàng trước
sau khi giao rựa của họ cho Chi, và tôi cùng Chí sẽ thay phiên khi 2 anh đó đã
thấm mệt. Chí bèn giao 2 cây rựa của anh Hoàng và anh Tố giao luôn cho anh Hóa
vác. Riêng tôi và Chí thì trên đường về sẽ tạt lại điểm chúng tôi phát quang để
lấy bị của mọi người và dao tông của mình.
Anh Hoàng đứng phía đầu đòn
cáng, hướng chân của anh Vàng và anh Tố ở cuối cáng, hướng đầu của anh Vàng,
tôi và Chí cùng tiếp tay nhấc đòn cáng lên vai họ. Thế là 5 người chúng tôi bắt
đầu lên đường. Hình như mỗi người đều đang nặng trĩu nhưng suy nghĩ có lẽ cũng
hao hao giống nhau: ‘khi về đến trại thì sẽ phải làm gì đây, nói năng như thế
nào đây?’ Riêng tôi, và chắc chắn là Chí nữa, thì còn thêm những lo nghĩ khác
vì là những nhân chứng sống cho cái chết của anh Vàng.
Chỉ khoảng mấy phút sau,
chúng tôi đã đến điểm chúng tôi đã phát quang, nhưng chẳng còn thấy bóng dáng
ai cả. Tôi lên tiếng :
- “Họ đâu cả rồi ?”.
Anh Tố buột miệng trả lời :
- “Chắc họ sợ quá sau khi
nghe thằng Bốn tuyên bố nên đã chạy về trước rồi.”.
Tôi hỏi tiếp :
- “Nó nói sao, Bố ?”
- “Tên Võ-Vàng đánh vệ binh
để cướp súng trốn trại. Ta đã diệt nó rồi.”
Tôi và Chí loanh quanh khoảng
1 phút tìm dao tông và bị nhưng không thấy. Chí nói :
- “Có lẽ anh em đã mang về
giùm rồi.”
Cũng chỉ đoán như vậy thôi,
chứ ở vùng không có bóng người dân nào thì ai mà lấy mấy thứ đó chứ. Tôi và Chí
bước nhanh để theo kịp chiếc võng cáng. Vừa đến ngang anh Tố thì thấy đầu của
anh Vàng lắc lư theo bước chân người khiêng lệch ra khỏi vỏng, bèn vừa đi vừa
banh rộng đầu võng để đầu anh lọt vào. Máu trên vùng ngực của anh hầu như đã
khô, còn ở má và miệng vẫn còn rỉ, tóc và trán vẫn còn bám cát từ lòng suối
khô.
Chúng tôi cứ thế lẳng lặng
bước... và bước, mong sao cho nhanh về đến trại. Ngang qua điểm phát quang của
Toán 2, chúng tôi cũng chẳng thấy ai nữa. Chắc họ cũng đã nghe tên Bốn nói gì
và đã nhanh chân rời khỏi đó, giống như số anh em còn lại của Toán 1.
Tôi ngước nhìn lên bầu trời,
lúc này có lẽ đã hơn 3 giờ chiều, nhưng nắng đã có phần dịu bớt nhờ những đám
mây trắng nhỏ từ phía Tây bắc lãng đãng trôi qua, che khuất mặt trời như cố ý
ngăn bớt luồng nóng hừng hực đâm thẳng vào thân xác một người đã từng vang bóng
một thời, đã tung hoành trên khắp chiến trường phía Nam của Quân Đoàn 1 (vùng
Quảng Nam, Quảng Ngãi), nhưng lại phải lìa đời trong tức tưởi. Tôi lại tưởng tượng
những đám mây kia là những thân nhân, vợ con và bạn bè, những người đã ngưỡng mộ
và thương mến anh, trong những chiếc áo tang, những chiếc khăn sô, đưa tiễn anh
lần cuối.
Rồi đầu anh Vàng lại lệch
ra khỏi đầu võng, và với những động tác cũ, tôi lại banh đầu võng, nâng đầu anh
lọt vào như cũ. Nhớ lại thì tôi đã dùng động tác này không dưới 3 lần trên đường
về đến trại, vì 2 đầu võng thường bị kéo túm lại do sức nặng nhún nhẩy từ phần
giữa võng. Trước đó, chúng tôi đã cẩn thận dùng phần dây võng còn thừa để buộc
2 chân anh vào một đầu võng, riêng võng ở phần đầu của anh thì không được.
Chúng tôi cứ tiếp tục bước...,
bước nhanh, hình như không quan tâm gì đến thời gian và đoạn đường mình đã đi
qua. Cho đến khi tôi định lên tiếng đòi thay phiên khiên cáng thì trước mắt, dảy
hàng rào bằng ‘róng’ (cở cây nhỏ hơn hoặc bằng cổ tay cao khoảng 3 mét, gài
chéo nhau theo hình tổ ong rào quanh trại) sát con lộ đã hiện ra phía bên trái,
cách chúng tôi khoảng 60 mét, nên không lên tiếng nữa.
Chỉ khoảng hơn 5 phút,
chúng tôi đã đến cách cổng trại chừng 15 mét thì tên Quản giáo Nhà chúng tôi đã
đứng đó từ trước chận chúng tôi lại và bảo :
- “Các anh bỏ anh Vàng tại
đây rồi vào trại đi !.”
Nhìn chênh về phía phải,
chúng tôi thấy một toán tù binh, không biết thuộc Khối nào, đang đào cái huyệt
cách con lộ khoảng 2 mét. Chúng tôi đoán là huyệt dành cho anh Vàng.
Anh Hoàng và anh Tố nhẹ
nhàng đặt xác anh Vàng xuống sát mé phải con lộ và chúng tôi lẳng lặng tiến về
cổng trại. Qua cổng trại rồi đi xuyên qua trước mặt Khối 2, tôi thấy nhiều anh
em tù, một số đứng trước sân, một số trong Nhà lặng lẽ nhìn chúng tôi, trong
ánh mắt họ dường như đang ẩn chứa rất nhiều câu hỏi. Về đến Nhà, tôi thấy đống
dao rựa đã nằm giữa nhà, cạnh cái lỗ hình chữ nhật bề 5 bề 8 tấc, sâu 2 tấc
dùng để đốt lá tươi hun khói đuổi muỗi khi đêm đến hoặc đốt củi sưởi ấm vào mùa
Đông, và những chiếc bị của chúng tôi đã nằm sẵn trên phần sạp ngủ của mỗi người.
Cởi bỏ áo quần lao động (quần áo của lính Bộ binh chế độ cũ được cấp phát cho
tù mặc khi lao động), chúng tôi ngả người trên phần sạp của mình nằm nghỉ ngơi
cho khô mồ hôi trước khi xuống suối để tắm và giặt. Riêng anh Chí thì vừa đếm vừa
đun hết số dao rựa vào trong bao bố và vác lên trả lại cho nhà kho chứa dụng cụ
lao động.
Bầu không khí trong Nhà của
cuối ngày lao động hôm đó bao trùm một sự tĩnh lặng hầu như tuyệt đối, giống như
đang mặc niệm cho người bạn tù đã vĩnh viễn ra đi, cho một sự mất mát, thiếu vắng
từ đây... chỉ còn những ánh mắt thỉnh thoảng nhìn nhau... Và thời gian cứ nặng
nề trôi qua...
Bỗng nhiên, tôi nghe nhiều
tiếng nói lao xao gần phía trước cửa nhà, liền nhỏm dậy xem thì thấy 3 người,
hình như thuộc Khối 2, đang vừa đi ngang qua cửa Nhà chúng tôi vừa nói chuyện.
Tôi vội chạy ra hỏi với
theo :
- “Mấy anh có biết họ đã
chôn anh Vàng chưa không ?”
Một anh trả lời :
- “Vẫn chưa, vì phải đào một
cái huyệt khác cách xa con lộ hơn 10 mét. Mấy thằng cán bộ nói cái huyệt đầu
tiên nằm sát đường quá.”
Anh Tố đang nằm nghỉ, nghe
thế bèn nhỏm dậy nói :
- “Như thế thì xui lắm. Ông
bà mình tin rằng nếu đào huyệt thứ 2 thì thân nhân của người chết sẽ bị chết
thêm một người nữa đó !”
Tôi thì chẳng biết gì về
chuyện này. Anh em còn lại trong nhà cũng chỉ đưa mắt nhìn nhau, nửa tin nửa ngờ...
nhưng phần nào cũng có chút lo lắng cho những người trong gia đình anh Vàng.
Rồi, như cái máy chạy theo
thời khóa biểu, chúng tôi xuống suối, tắm, giặt. Sau đó, người trực cơm xuống bếp
nhận cơm lên chia đều cho anh em trong Nhà. Cũng chỉ là 1 chén cơm và ‘mắm cái’
hầu như thường lệ, nhưng hôm nay dường như có thêm những giọt nước mắt nhỏ xuống
từ bên trong, thẳng vào cuống họng mỗi lần nuốt 1 ngụm cơm...
Lúc này, màn đêm đang dần
phủ trên Trại Tù. chúng tôi chuẩn bị họp Nhà để bình bầu cá nhân xuất sắc cho
ngày lao động dở dang hôm nay. Một người mang củi vào nhóm lửa và 1 người nữa
mang mấy nhành cây nhỏ có nhiều lá còn xanh để hun khói đuổi muổi. Trong ánh lửa
lập lòe kèm theo khói, chúng tôi vừa bắt đầu họp thì thấy tên Quản giáo (người
Quảng - tôi không nhớ tên) bước vào. Nó không ngồi lên sạp như thường lệ mà chỉ
nói lớn :
- “Các anh hãy coi chừng!
Cái chết của anh Vàng là sự trừng phạt cho những muốn trốn trại đó !”
Rồi bỏ đi, một chốc sau,
chúng tôi lại thấy tên Bốn đi ngang và nhìn vào Nhà chúng tôi liếc ngang liếc dọc,
vai vẫn mang khẩu AK-47, nét mặt có vẻ vênh váo như vừa mới lập được một ‘chiến
công’ hèn hạ chưa chừng thấy. Thật ra thì tất cả anh em cùng Nhà đều mang tâm
trạng phập phồng lo sợ... sau sự kiện của anh Vàng. Riêng tôi, và chắc là với
Chí ‘nhỏ’, lại càng cảm thấy thấp thỏm hơn, vì là những nhân chứng sau cùng.
Họp xong, tôi đến bên Chí
‘nhỏ’, nói :
- “Ngày mai Chí cắt tôi đi
công tác theo nhóm cho bảo đảm đó !” Chí gật đầu, phần nào hiểu được ý của tôi.
Đặc biệt tối nay, sau khi họp
xong, chúng tôi không ra phía trước sân, tụm 2, tụm 3, trao đổi năm điều ba
chuyện bâng quơ trước khi vào ngủ, mà một số thì vẫn ngồi trên sạp, một số nằm
dài, theo đuổi những suy nghĩ riêng tư của mình.
Rồi một đêm không bình thường
nặng nề trôi qua. Sáng hôm sau, Chí lên nhận công tác và vác theo về một bao bố
chứa toàn dao tông, và công tác hôm nay là chặt những khúc cây dài từ 4 - 4,5
mét, thật thẳng, có ngọn tối thiểu là 1 tấc 3. Thường thì đây là công tác riêng
lẻ, tức là mạnh ai nấy lên rừng và lục tìm và chặt rồi vác về, nhưng Chí cũng cẩn
thận dặn anh em nên đi theo từng toán 4 hay 5 người để khỏi bị vệ binh len lén
đi theo và ‘diệt’ từng người trong chúng tôi như trường hợp của anh Vàng.
Cũng may đến gần trưa thì
anh Tố, tôi, Ninh và Cảnh đã chặt xong cây và vác xuống sườn núi, nơi có khoảng
trống khá lớn nằm trên con đường nhỏ dẫn về trại và cách trại khoảng hơn 2 km.
Chúng tôi kiếm bóng mát để nghỉ ngơi và ăn trưa. Nhân lúc này anh Tố mới bảo
tôi kể lại phần cuối của vụ anh Vàng bị bắn. Và tôi đã nói cho họ nghe.
Đến chiều, khoảng 4 giờ,
khi vác cây về đến Nhà, chúng tôi lại thoáng thấy tên Bốn đi từ hướng Khối 2 về
Khối 1 và, khi đi ngang Nhà chúng tôi, nó bước chậm lại và liếc nhìn vào. Tôi
nghĩ rằng đây là điều không bình thường, dù thỉnh thoảng vẫn có vệ binh đi lòng
vòng trước sân các Khối vào gần cuối ngày lao động. Nhà chúng tôi đã cố làm cho
bầu không khí trở nên bình thường, nhưng thật ra vẫn không bình thường như cũ được.
Mọi người có vẻ thận trọng, dè dặt, ít nói chuyện với nhau hơn. Chỉ mong thời
gian sẽ xóa dần nỗi lo sợ cho những gì sẽ xảy ra kế tiếp.
Và điều không bình thường
này đã đến ngay vào buổi sáng hôm sau. Khi Chí đi nhận công tác về với chiếc
bao bố chứa dao, rựa trên vai. Khuôn mặt anh hơi lộ vẻ lo âu. Anh nói đại khái
chỉ tiêu lao động trong ngày, rồi tiếp :
- “Hôm nay tôi và anh X... ở
nhà làm công tác khác.”
Mọi người bắt đầu hoang
mang, thắc mắc nhìn nhau nhưng chẳng ai buồn lên tiếng, ngay cả tôi, mà chỉ lẳng
lặng ăn hết miếng bánh xốp làm bằng bột mì Liên Xô thay cho điểm tâm rồi mài dụng
cụ lao động và rời khỏi Nhà.
Chờ cho anh em đi hết, tôi
mới kéo Chí ra khỏi nhà để đề phòng anh Cúc nghe được, và chưa kịp hỏi thì Chí
đã nói :
- “Một chốc nữa thì tên Quản
giáo sẽ đến hướng dẫn chúng ta viết bản tường trình về cái chết của anh Vàng.
Hình như người anh của anh Vàng là Trung tá Bộ đội đã đến Tổng trại và yêu cầu
điều tra rõ chuyện này. Anh tính thế nào?”
Tôi suy nghĩ một chốc, rồi
nói :
- “Viết tường trình vụ này
mà do Quản giáo hướng dẫn thì chắc 2 anh em mình sẽ không nói lên được sự thật
mình đã chứng kiến đâu. Bây giờ tụi mình đều như cá nằm trên thớt. Nó bảo sao
thì phải viết vậy thôi.” Như một sự đồng cảm đã có sẵn, Chí gật đầu.
Chúng tôi vào nhà, nằm dài
trên sạp của mình, vừa chờ tên “Quản giáo” đến, vừa suy nghĩ xem còn có cách ứng
phó nào khác nữa không.
Hơn nửa giờ sau, tên “Quản
giáo” bước vào, tay cầm cuộn giấy tập vở và 2 cây bút bi, bảo chúng tôi đến Hội
trường và nói:
- “Hai anh hãy tường trình
lại đúng y như lời vệ binh đã nói, tức là anh Vàng đã đánh vệ binh, cướp súng để
trốn trại nên đã bị vệ binh bắn chết. Viết ngắn gọn thôi rồi ghi tên mình, Khối
và Trại và ký tên là xong. Càng nhanh càng tốt”.
Tôi không biết Chí có ý
nghĩ gì không. Riêng tôi thì thầm nói: “Anh Vàng, xin anh thứ lỗi và thông cảm
cho hoàn cảnh chúng tôi hiện giờ. Nhưng tôi xin hứa với anh là sẽ kể lại toàn bộ
chuyện này cho chị Đường nghe sau khi tôi được tha về!”
Chưa tới 10 phút, chúng tôi
đã viết xong. Tên “Quản giáo” cầm từng tờ giấy lên đọc rồi gật đầu, nói :
- “Hai anh về làm vệ sinh
quanh Nhà rồi nghỉ ngơi đi!”, rồi bước nhanh về phía cổng trại.
Khoảng 1 giờ sau, chúng tôi
đã làm xong công việc được giao phó, rồi Chí thì soạn kim chỉ vá chiếc bị của
anh, còn tôi thì nằm ngả người trên sạp, mắt nhìn lên trần nhà, nhưng lại không
thấy trần nhà mà lại thấy hiện ra 2 hình ảnh của anh Vàng :
- Một anh Vàng với thân thể
cường tráng, nở nang, tiềm ẩn một sức lực dồi dào (anh đã từng được bình bầu xuất
sắc trong lao động rất nhiều lần và là người khỏe nhất Nhà), dáng người tầm thước
(khoảng 1,68 mét), nước da hơi đen sạm. Điểm đặc biệt là anh có đôi mắt to, màu
đen pha một chút màu nâu, đầy vẻ bướng bỉnh. Anh thường ít nói và cũng ít cười
nhưng dễ tiếp cận. (Tôi chỉ thấy anh cười nhiều nhất, bằng mắt nhiều hơn bằng
miệng, khi tôi kể mấy chuyện phiếm tôi còn nhớ từ cuốn ‘Truyện cười của Đặng-trần-Huân’).
Còn nghe nói anh cũng có ‘nghề’ (biết võ thuật) nữa. Hình như anh không hút thuốc,
nhưng vì có một vài người trong Nhà tập hút thuốc lào nên anh đã thử. Và trong
những lần đầu, khi anh rít xong một hơi thì mặt anh trở nên đờ đẫn, mắt mơ màng
khiến anh em không nhịn được cười...
- Và Một anh Vàng trong tư
thế nằm sấp nơi lòng suối khô của vùng Cò Bay, Bồng Miêu với 3 lỗ đạn ở lưng, rồi
trong tư thế nằm ngửa với má và miệng banh nát sau loạt đạn thứ hai, với cái đầu
lắc lư trên đầu võng... : kết quả từ thủ đoạn đê hèn của một chế độ đầy âm mưu
thâm độc...
Hai hình ảnh này cứ luân
phiên chợt ẩn chợt hiện không ngừng trước mắt tôi như chồng chất thêm trong
lòng tôi nổi xót xa, mất mát một người bạn tù đáng kính.
Anh đã nằm xuống nhưng tên
Võ-Vàng của anh sẽ không bao giờ chết trong lòng chúng tôi. Anh vẫn là Người
hùng, một Ngôi sao sáng chói trong Binh chủng Biệt Động Quân, trong Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa.
Vì hoàn cảnh không cho phép
gặp trực tiếp để kể lại cho chị Đường và các cháu nghe, tôi xin ghi lại những
dòng này thực hiện lời thầm hứa với anh Vàng sau 39 năm.
Tôi cũng thành thật xin lỗi
đã gợi lại những buồn đau của gia đình chị mà có lẽ phần nào đã phôi pha theo
thời gian, nhưng đồng thời cũng giúp chị và các cháu luôn giữ vững niềm tự hào
đã có một người chồng, người cha kiêu hùng, bất khuất...
Tôi cũng cảm ơn anh Tấn đã
nhắc tôi ghi lại sự kiện này, và nhờ anh (Cựu Trung tá, Trung Đoàn phó Trung
Đoàn 2/SĐ 3 BB) tìm cách liên lạc và chuyển giùm, không chỉ cho chị Đường mà
còn cho những người có tên đã được đề cập trong bài viết để nhận những phản hồi
thông qua anh.
Xtanker20
Cựu Tù Nhân Chính Trị Quảng
Nam