Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2020

FOREIGN RELATIONS OF THE UNITED STATES 1969-1976. Letter from President Nixon to South Vietnamese President Thieu. The text of Thieu’s letter to the President

FOREIGN RELATIONS OF THE UNITED STATES 1969-1976
VIETNAM OCTOBER 1972 - JANUARY 1973
(FOREIGN RELATIONS of THE UNITED STATES, 1969-1976 Vol. IX, Vol. X)
Documents Excerpts for the Strategic Studies for The Republic of Vietnam
----



Part 1: “We believe that peace is at hand", Letter From President Nixon to South Vietnamese President Thieu, Message From the Ambassador to Vietnam (Bunker) to the President’s Deputy Assistant for National Security Affairs (Haig), Preface.
Part 8:  Memorandum of Conversation1 Saigon, December 19, 1972.
Part 9 Memorandum of Conversation Saigon, December 19, 1972 (Continued)


The text of Thieu’s letter to the President is as follows: Dear Mr. President, General Haig has brought me your letter of December 17 and has explained to me your considered judgment of the state of the peace negotiations. From your letter and his presentation it appears to me that we are placed in a situation where I am faced with the choice either to join you in accepting the agreement under its present form or you will proceed in a separate course which will serve the US interests alone. Let me assure you first, Mr. President,  that I have an abiding gratitude toward you for what you have done for the cause of freedom in Viet Nam in the past four years. I have complete faith in the Nixon Doctrine, and believe that the Government and people of South Viet Nam have fully done their share to implement that doctrine for the defense and preservation of freedom. As a result, on the military field we have taken over the fighting and will replace all the US troops in a few months; on the political field we have joined the United States in all the peace initiatives that have been made, and we have constantly shown our generous and forth-coming attitude in actively cooperating throughout the negotiations conducted by the United States Government with the Communists in the past months. The objections which we raised to the unreasonable demands of the Communist aggressors are due to the fact that our survival is at stake and that the unjust conditions posed by the Communist aggressors go counter to the basic positions which our two governments have jointly taken for a long time, in this common struggle. As I have spelled out to you in my previous letters, through your emissaries and Ambassador Bunker, as well as through my personal emissary to you in Washington recently, we consider that for a settlement to be fair and honorable, and to be consistent with the purposes which we have set out together in this struggle, the agreement should embody these three major principles:1—The NVA has no right to be in South Viet Nam, and should to-tally withdraw to North Viet Nam concurrently with other non-South December 14–29, 1972  771Vietnamese forces, in accordance with our joint communique ́at Midway in July [June] 1969.2—There could not be clauses or wordings in the agreement which could be interpreted as the recognition of the PRG as a government parallel to the GVN in South Viet Nam.3—The composition and functions of the CNRC should not be those of a super-coalition government in disguise. In this context, I must say in all candor that it would be unfair to force the Government and people of South Viet Nam, by an ultimatum, either to accept the draft agreement under the sudden complete termination of assistance from our principal ally in the face of a ruthless enemy who continues to be aided by the entire Communist camp, and who has not abandoned his aggressive and expansionist designs. In all sincerity it seems to me that neither course of action will bring about the just and fair settlement of the war that we have been striving for, which could justify the enormous sacrifices that together our two countries have made for so long. We are aware however of your great desire to end this war even though the settlement conditions are imperfect. Therefore, with maximum goodwill and as the very last initiative, we are ready to accept the agreement as of December 12 provided that the so-called PRG can-not be considered as a parallel government to the GVN in South Viet Nam and that the question of the North Vietnamese troops in the South be resolved satisfactorily, that is those troops should withdraw totally from South Viet Nam within the same delay as for the allied troops un-der effective supervision. The political questions can thus be settled by the two South Vietnamese parties as stipulated in the agreement as of December 12, even though we feel that the clauses under their present form are to our great disadvantage. The withdrawal of the NVA however is indispensable because there can be no self-determination unless all the Communist aggressors leave South Viet Nam in fact as well in principle. We believe that the new great concessions which we take, as mentioned above, are important risks for peace which we assume. These concessions demonstrate beyond any shadow of a doubt the deep desire of the South Vietnamese people for a peaceful and honorable settlement. I must say that the South Vietnamese Government and people absolutely cannot go beyond these new important concessions, because otherwise it would be tantamount to surrender. I shall appreciate it deeply if the United States Government would side with us and present our new initiatives to the Communists with vigor and conviction. We believe that our new position deserves very serious consideration.
339-370/428-S/80004772   Foreign Relations, 1969–1976, Volume IX If the Communist aggressors continue to be stubborn and reject this offer, international public opinion as well as domestic opinions in our respective countries will realize better who is the obstacle to peace. Sincerely, signed Thieu

Nội dung bức thư của Tổng Thống Thiệu gửi cho Tổng thống Nixon như sau:
Thưa Ngài Tổng thống, Tướng Haig đã mang đến cho tôi lá thư ngày 17 tháng 12 và đã giải thích cho tôi phán quyết của Ông về tình trạng của các cuộc đàm phán hòa bình. Từ thư của Ông và bài thuyết trình của Ông ấy, tôi thấy rằng chúng tôi đang ở trong tình huống tôi phải đối mặt với sự lựa chọn hoặc tham gia cùng Ông để chấp nhận thỏa thuận theo mẫu hiện tại hoặc Ông sẽ tiến hành một hướng đi riêng phục vụ lợi ích của Hoa Kỳ một mình. Hãy để tôi đảm bảo với Ông trước, thưa Tổng thống, rằng tôi có một lòng biết ơn sâu sắc đối với Ông vì những gì Ông đã làm cho sự nghiệp tự do ở Việt Nam trong bốn năm qua. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào Học thuyết Nixon, và tin rằng Chính phủ và nhân dân Nam Việt Nam đã đóng góp phần của mình để thực hiện học thuyết đó để bảo vệ và giữ gìn tự do. Kết quả là, trên chiến trường quân sự, chúng tôi đã tiếp quản cuộc chiến và sẽ thay thế tất cả quân đội Hoa Kỳ trong vài tháng; trên lĩnh vực chính trị, chúng tôi đã tham gia Hoa Kỳ trong tất cả các sáng kiến hòa bình đã được thực hiện, và chúng tôi đã liên tục thể hiện thái độ rộng lượng và hướng tới của mình trong việc tích cực hợp tác trong suốt các cuộc đàm phán của Chính phủ Hoa Kỳ với Cộng sản trong những tháng qua. Sự phản đối mà chúng tôi đưa ra đối với những yêu cầu vô lý của những kẻ xâm lược Cộng sản là do sự sống còn của chúng tôi đang bị đe dọa và những điều kiện bất công được đặt ra bởi những kẻ xâm lược Cộng sản đi ngược lại những vị trí căn bản mà hai chính phủ của chúng ta đã cùng nhau thực hiện từ lâu, trong cuộc đấu tranh chung này. Như tôi đã viết cho Ông trong những lá thư trước đây của tôi, thông qua các sứ giả và Đại sứ Bunker của Ông, cũng như thông qua người phát ngôn cá nhân của tôi cho Ông ở Washington gần đây, chúng tôi cho rằng việc giải quyết là công bằng và danh dự, và phù hợp với những mục đích mà chúng ta đã cùng nhau đặt ra trong cuộc đấu tranh này, hiệp định nên thể hiện ba nguyên tắc chính sau:
1 Quân Bắc Việt không có quyền được ở lại Miền Nam Việt Nam, và phải rút về Bắc Việt Nam đồng thời với những lực lượng không thuộc miền Nam Việt Nam,
771 theo thông cáo chung của chúng ta at Midway vào tháng 7 [tháng 6] 1969.
2. Không thể có những mệnh đề hay từ ngữ trong bản thỏa ước được dịch nghĩa như sự chấp nhận PRG là một chính phủ song song với chính phủ Việt Nam ở Miền Nam Việt Nam.
3 Các thành phần và chức năng của CNRC không nên là của một chính phủ siêu liên minh được ngụy trang. Trong bối cảnh này, tôi phải nói một cách thẳng thắn rằng sẽ không công bằng khi bắt buộc Chính phủ và nhân dân Nam Việt Nam, bằng tối hậu thư, hoặc là chấp nhận bất ngờ một dự thảo thỏa thuận dưới sự chấm dứt hoàn toàn hỗ trợ từ đồng minh chính của chúng tôi.trước mắt một kẻ thù tàn nhẫn, những kẻ tiếp tục được hỗ trợ bởi toàn bộ phe Cộng sản, và những kẻ đã không từ bỏ các thiết kế xâm lược và bành trướng của chúng. Bằng tất cả sự chân thành đối với tôi dường như không có đường hướng hành động nào sẽ mang lại sự giải quyết công bằng và hợp lý cho cuộc chiến mà chúng tôi đang tranh đấu, có thể minh chứng cho những hy sinh to lớn mà hai nước chúng ta đã làm từ lâu. Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng Ông rất muốn kết thúc cuộc chiến này mặc dù điều kiện giải quyết không hoàn hảo. Do đó, với thiện chí tối đa và là sáng kiến cuối cùng, chúng tôi sẵn sàng chấp nhận thỏa thuận vào ngày 12 tháng 12 với điều kiện cái gọi là PRG không thể được coi là một chính phủ song song với chính phủ Việt Nam tại Miền Nam Việt Nam và vấn đề của quân đội Bắc Việt ở miền Nam Việt Nam được giải quyết thỏa đáng, tức là những đội quân đó phải rút hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam trong cùng một thời hạn rút quân như đối với quân đội đồng minh dưới sự giám sát hiệu quả. Do đó, các vấn đề chính trị có thể được hai bên miền Nam giải quyết theo quy định trong thỏa thuận vào ngày 12 tháng 12, mặc dù chúng tôi cảm thấy rằng các điều khoản dưới hình thức hiện tại của chúng là bất lợi lớn cho chúng tôi. Tuy nhiên, việc rút NVA là không thể thiếu vì không thể có quyền tự quyết trừ khi tất cả những kẻ xâm lược Cộng sản rời khỏi Nam Việt Nam trên thực tế cũng như về nguyên tắc. Chúng tôi tin rằng những nhượng bộ lớn mới mà chúng tôi thực hiện, như đã đề cập ở trên, là những rủi ro quan trọng cho hòa bình mà chúng tôi giả định. Những nhượng bộ này thể hiện vượt ra ngoài mọi nghi ngờ về mong muốn sâu sắc của người dân miền Nam đối với một sự dàn xếp hòa bình và danh dự. Tôi phải nói rằng Chính phủ và nhân dân miền Nam hoàn toàn không thể vượt quá những nhượng bộ quan trọng mới này, bởi vì nếu không thì sẽ tương đương với việc đầu hàng. Tôi sẽ đánh giá cao điều đó nếu Chính phủ Hoa Kỳ sẽ sát cánh cùng chúng tôi và trình bày những sáng kiến mới của chúng tôi cho những người Cộng sản với nghị lực và niềm tin mạnh mẽ. Chúng tôi tin rằng vị trí mới của chúng tôi xứng đáng được xem xét rất nghiêm trọng.
339-370 / 428-S / 80004772 Quan hệ đối ngoại, 1969-1976, Tập IX Nếu những kẻ xâm lược Cộng sản tiếp tục ngoan cố và từ chối lời đề nghị này, dư luận quốc tế cũng như các ý kiến người dân trong nước ta sẽ nhận ra tốt hơn ai là trở ngại cho hòa bình.
Trân trọng, đã ký Thiệu

Note by Hoàng Hoa
1.    Trong thư của TT Thiệu có dùng từ “conviction” (phán quyết tội nhân, niềm tin mạnh mẽ) đồng nghĩa (đối với) “Judgement” (phán quyết) khi TT Nixon nói với TT Thiệu về sự quyết định cuối cùng là nếu TT Thiệu không hợp tác với TT Nixon thì TT Nixon sẽ đơn phương quyết định. Nghĩa là TT Nixon hàm ý “nhắc nhở” (hăm dọa) TT Thiệu rằng TT Nixon sẽ đơn phương quyết định, còn TT Thiệu thì nói TT Nixon nȇn “convict” (conviction=judgement= niềm tin) hành động phán quyết đó cho người Cộng sản. TT Thiệu có nói “tối hậu thư” (ultimatum) ý nói về sự “hăm doạ” của TT Nixon trong thư của TT Nixon.
2.    Bức thư của TT Nixon viết từ Washington ngày 17/12/1972 trước một ngày đánh bomb trừng phạt Bắc Việt 18/12/1972, nhưng TT Nixon muốn gởi thư tay nhờ Tướng Haig trao tận tay TT Thiệu, TT Nixon biết rằng thư sẽ đến tay TT Thiệu 20/12/1972 sau khi cuộc đánh bom Bắc Việt. Ý TT Nixon muốn giữ bí mật không qua đường cable, và trân trọng thông báo TT Thiệu, như TT Nixon nói bức thư này không phải là tham khảo ý kiến của TT Thiệu mà hàm ý một phán quyết (judgement) đối với vấn đề, nhưng cũng là một tối hậu thư (ultimatum).
3.    PRG: Provisionary Republic Government (Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa MNVN), danh xưng của Mặt Trận Giải Phóng (National Liberation Front) do CSBV thành lập năm 1960.
4.    CNRC: Council of the National Reconciliatory and Concord (Hội Ðồng Hòa Giải Hòa Hợp Quốc Gia).
5.    The Communique at Midway Island. June 8, 1969. Video.


----

724   Foreign Relations, 1969–1976, Volume IX
189.  Letter from President Nixon to South Vietnamese President Thieu1

Washington, December 17, 1972.
Dear Mr. President:
I have again asked General Haig to visit you in Saigon. He will in-form you of my final considered personal judgment of the state of the ceasefire negotiations and of the prospects we now face. Over the last two months—through my personal letters, through my extensive personal discussions with your emissary, through communications via Dr. Kissinger, General Haig, and Ambassador Bunker, and through daily consultations in Paris—I have kept you scrupulously informed of the progress of the negotiations. I have sought to convey to you my best judgment of what is in our mutual interest. I have given you every opportunity to join with me in bringing peace with honor to the people of South Vietnam. General Haig’s mission now represents my final effort to point out to you the necessity for joint action and to convey my irrevocable intention to proceed, preferably with your cooperation but, if necessary, alone. Recent events do not alter my conclusion. Although our negotiations with Hanoi have encountered certain obstacles, I want you to have no misunderstanding with regard to three basic issues: First, we may still be on the verge of reaching an acceptable agreement at any time. Second, Hanoi’s current stalling is prompted to a great degree by their desire to exploit the public dissension between us. As Hanoi obviously realizes, this works to your grave disadvantage. Third, as I have informed Hanoi, if they meet our minimum remaining requirements, I have every intention of proceeding rapidly to a settlement. You are also aware of certain military actions which will have been initiated prior to General Haig’s arrival. As he will explain to you, these actions are meant to convey to the enemy my determination to bring the conflict to a rapid end—as well as to show what I am prepared to do in case of violation of the agreement. I do not want you to be left, under any circumstances, with the mistaken impression that these actions December 14–29, 1972   725 signal a willingness or intent to continue U.S. military involvement if Hanoi meets the requirements for a settlement which I have set. If the present lack of collaboration between us continues, and if you decide not to join us in proceeding now to a settlement, it can only result in a fundamental change in the character of our relationship. I am convinced that your refusal to join us would be an invitation to disaster—to the loss of all that we together have fought for over the past decade. It would be inexcusable above all because we will have lost a just and honorable alternative. I have asked General Haig to obtain your answer to this absolutely final offer on my part for us to work together in seeking a settlement along the lines I have approved or to go our separate ways. Let me emphasize in conclusion that General Haig is not coming to Saigon for the purpose of negotiating with you. The time has come for us to present a united front in negotiating with our enemies, and you must decide now whether you desire to continue to work together or whether you want me to seek a settlement with the enemy which serves U.S. interests alone.
Sincerely,
Richard Nixon

Washington, ngày 17 tháng 12 năm 1972.
Thưa Ngài Tổng thống:
Tôi lại yêu cầu Tướng Haig đến thăm ông ở Sài Gòn. Ông ấy sẽ thông báo cho ông về phán đoán cá nhân cuối cùng của tôi về tình trạng của các cuộc đàm phán ngừng bắn và về triển vọng mà chúng ta hiện đang đối mặt. Trong hai tháng qua, qua các lá thư cá nhân của tôi, qua các cuộc thảo luận cá nhân rộng rãi của tôi với đặc sứ của ông, qua các liên lạc qua Tiến sĩ Kissinger, Tướng Haig và Đại sứ Bunker, và qua các cuộc tham khảo hàng ngày ở Paris, tôi đã thông báo cho ông về tiến trình của các cuộc đàm phán. Tôi đã tìm cách chuyển đến ông sự đánh giá tốt nhất của tôi về những gì thuộc về lợi ích chung của chúng ta. Tôi đã cho ông mọi cơ hội để tham gia cùng tôi trong việc mang lại hòa bình với danh dự cho người dân miền Nam Việt Nam. Nhiệm vụ của Tướng Haig hiện đại diện cho nỗ lực cuối cùng của tôi để chỉ ra cho ông sự cần thiết cho hành động chung và chuyển đến ý định không thể đảo ngược của tôi để tiến hành, tốt nhất là với sự hợp tác của ông, nhưng, nếu cần thiết, một mình. Các sự kiện gần đây không làm thay đổi kết luận của tôi. Mặc dù các cuộc đàm phán của chúng ta với Hà Nội đã gặp phải một số trở ngại, tôi muốn ông không có sự hiểu lầm đối với ba vấn đề căn bản: Thứ nhất, chúng ta vẫn có thể sắp đạt được thỏa thuận chấp nhận được bất cứ lúc nào. Thứ hai, sự khựng lại hiện tại của Hà Nội được thúc đẩy đến một mức độ lớn bởi tham vọng khai thác sự bất đồng công khai giữa chúng ta. Như Hà Nội rõ ràng nhận ra, điều này dẫn đến bất lợi nghiêm trọng của ông. Thứ ba, như tôi đã thông báo cho Hà Nội, nếu họ đáp ứng các yêu cầu tối thiểu còn lại của chúng tôi, tôi có mọi ý định tiến hành nhanh chóng đến cuộc dàn xếp. Ông cũng nhận thức được một số hành động quân sự đã được bắt đầu trước khi Tướng Haig đến. Như ông ấy sẽ giải thích cho ông, những hành động này mang ý nghĩa chuyển đến cho kẻ thù quyết tâm của tôi để đưa cuộc xung đột đến kết thúc nhanh chóng - cũng như cho thấy những gì tôi chuẩn bị làm trong trường hợp vi phạm thỏa thuận. Trong mọi trường hợp, tôi không muốn ông bị bỏ lại, với ấn tượng sai lầm rằng những hành động này báo hiệu sự sẵn sàng hoặc ý định tiếp tục sự tham gia của quân đội Hoa Kỳ nếu Hà Nội đáp ứng các yêu cầu cho một giải pháp mà tôi đã đặt ra. Nếu sự thiếu hợp tác hiện tại giữa chúng ta vẫn tiếp diễn và nếu ông quyết định không tham gia cùng chúng tôi ngay bây giờ để tiến hành giải quyết, điều đó chỉ có thể dẫn đến một sự thay đổi căn bản trong tính cách của mối quan hệ của chúng ta. Tôi tin chắc rằng việc ông từ chối tham gia với chúng tôi sẽ là một lời mời đến thảm họa - đến sự mất mát của tất cả những gì chúng ta đã cùng nhau chiến đấu trong hơn thập kỷ qua. Không thể tha thứ được vì bất cứ lý do gì bởi vì chúng ta sẽ mất đi một sự chọn lựa khác chính đáng và danh dự. Tôi đã yêu cầu Tướng Haig nhận được câu trả lời của ông cho lời đề nghị cuối cùng tuyệt đối này về phía tôi để chúng ta cùng nhau tìm kiếm một giải pháp theo các dòng tôi đã phê duyệt hoặc đi theo những cách riêng biệt. Hãy để tôi nhấn mạnh kết luận rằng Tướng Haig sẽ không đến Sài Gòn với mục đích đàm phán với ông. Đã đến lúc chúng ta trình bày một mặt trận thống nhất trong việc đàm phán với kẻ thù của chúng ta và ông phải quyết định ngay bây giờ liệu ông có muốn tiếp tục làm việc cùng nhau hay ông muốn tôi tìm cách giải quyết với kẻ thù chỉ phục vụ lợi ích của Hoa Kỳ. Tôi đã yêu cầu Tướng Haig có được câu trả lời của ông cho lời đề nghị hoàn toàn cuối cùng này về phía tôi để chúng tôi cùng nhau tìm kiếm một giải pháp theo các dòng tôi đã phê duyệt hoặc đi theo những cách riêng biệt. Hãy để tôi nhấn mạnh kết luận rằng Tướng Haig sẽ không đến Sài Gòn với mục đích đàm phán với ông. Đã đến lúc chúng ta trình bày một mặt trận thống nhất trong việc đàm phán với những kẻ thù của chúng ta và ông phải quyết định ngay bây giờ liệu ông có muốn tiếp tục làm việc cùng nhau hay ông muốn tôi tìm cách giải quyết với kẻ thù chỉ phục vụ lợi ích của Hoa Kỳ.
Trân trọng,
Richard Nixon



---
At President Richard M. Nixon’s direction, President’s Assistant for National Security Affairs Henry A. Kissinger held a press conference on Saturday, December 16, 1972, at 11:45 a.m.

December 14–29, 1972 709
182.  Editorial Note At President Richard M. Nixon’s direction, President’s Assistant for National Security Affairs Henry A. Kissinger held a press conference on Saturday, December 16, 1972, at 11:45 a.m. “The aim of my briefing as I conceived it,” Kissinger later wrote, “was to place the blame [for the stalled negotiations] where it belonged—on Hanoi—and again to leave no doubt in Saigon of our determination to conclude the agreement.” (White House Years, page 1451)To this end, his remarks prior to the question-and-answer session focused on the peace he thought he had negotiated in October, what had happened since, and what the United States should do now. The part most relevant to his avowed aim occurred toward the end of his statement: “The major difficulty that we now face is that provisions that were settled in the agreement appear again in a different form in the protocols; that matters of technical implementation which were implicit in the agreement from the beginning have not been addressed and were not presented to us until the very last day [December 13] of a series of sessions that had been specifically designed to discuss them; and that as soon as one issue was settled, a new issue was raised. “It was very tempting for us to continue the process which is so close to everybody’s heart, implicit in the many meetings, of indicating great progress; but the President decided that we could not engage in a charade with the American people. “We now are in this curious position: Great progress has been made, even in the talks. The only thing that is lacking is one decision in Hanoi, to settle the remaining issues in terms that two weeks previously they had already agreed to. So we are not talking of an issue of principle that is totally unacceptable. Secondly, to complete the work that is required to bring the international machinery into being in the spirit that both sides have an interest of not ending the war in such a way that it is just the beginning of another round of conflict. So we are in a position where peace can be near but peace requires a decision. This is why we wanted to restate once more what our basic attitude is. “With respect to Saigon, we have sympathy and compassion for the anguish of their people and for the concerns of their government. But if we can get an agreement that the President considers just, we will proceed with it. “With respect to Hanoi, our basic objective was stated in the press conference of October 26. We want an end to the war that is something more than an armistice. We want to move from hostility to normalization and from normalization to cooperation. But we will not make a
339-370/428-S/80004710   Foreign Relations, 1969–1976, Volume IX settlement which is a disguised form of continued warfare and which brings about by indirection what we have always said we would not tolerate. “We have always stated that a fair solution cannot possibly give either side everything that it wants. We are not continuing a war in order to give total victory to our allies. We want to give them a reasonable opportunity to participate in a political structure, but we also will not make a settlement which is a disguised form of victory for the other side.” (Department of State Bulletin, January 8, 1973, pages 36–37; Kissinger’s opening statement and excerpts from the question-and-answer session were also printed in The Washington Post, December 17, 1972,page A9)About the press conference, Kissinger later observed: “I was asked to give a low-key briefing of the reasons for the recessing of the Paris talks; how to be low-key about such a dramatic event was no more apparent to me in Washington than it had been in Paris.” Nonetheless, as he recorded in his memoirs, “I had no objection to this assignment; in-deed, I volunteered for it.” (White House Years, page 1449)



Phần 4: Theo chỉ thị của Tổng thống Richard M. Nixon, Trợ lý của Tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia Henry A. Kissinger đã tổ chức một cuộc họp báo vào thứ Bảy, ngày 16/12/1972, lúc 11:45 sáng

182. Ghi chú của Biên tập Theo chỉ thị của Tổng thống Richard M. Nixon, Trợ lý của Tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia Henry A. Kissinger đã tổ chức một cuộc họp báo vào thứ Bảy, ngày 16/12/1972, lúc 11:45 sáng. “Mục đích của cuộc họp ngắn của tôi theo tôi nghĩ,” sau này, Kissinger đã viết, “đó là sự đổ lỗi [cho các cuộc đàm phán bị đình trệ] nơi nó thuộc về - Hà Nội - và một lần nữa không nghi ngờ gì ở Sài Gòn về quyết định của chúng tôi để kết thúc thỏa thuận.” (Những Năm Nhà Trắng, trang 1451) Cho đến cuối cùng, những nhận xét của ông trước phiên hỏi-và-trả lời tập trung vào nền hòa bình mà ông nghĩ rằng ông đã đàm phán vào tháng 10, những gì đã xảy ra kể từ đó và Hoa Kỳ nên làm gì bây giờ. Phần có liên quan nhất đến mục tiêu đã được thừa nhận của ông ta xảy ra vào cuối tuyên bố của ông: “Khó khăn chính mà chúng ta hiện đang đối diện là các điều khoản đã được giải quyết trong thỏa thuận lại xuất hiện dưới một hình thức khác trong các nghị quyết; rằng các vấn đề áp dụng kỹ thuật tiềm ẩn trong thỏa thuận ngay từ đầu đã không được giải quyết và không được trình bày cho chúng tôi cho đến tận ngày cuối cùng [13 tháng 12] của một loạt các phiên họp được thiết kế đặc biệt để thảo luận về chúng; và ngay khi một vấn đề được giải quyết, một vấn đề mới lại được đưa ra. “Ðó là một điều rất cám dỗ đã khiến chúng tôi tiếp tục quá trình rất gần gủi với trái tim của mọi người, tiềm ẩn trong nhiều cuộc họp, cho thấy sự tiến bộ vượt bậc; nhưng Tổng thống đã quyết định rằng chúng tôi không thể tham gia vào một trò đố chữ (charade) với người dân Mỹ. Bây giờ chúng tôi đang ở vị trí tò mò này: Đã có tiến bộ lớn, ngay cả trong các cuộc đàm phán. Điều duy nhất còn thiếu là một quyết định tại Hà Nội, để giải quyết các vấn đề còn lại theo điều kiện mà họ đã đồng ý hai tuần trước đây. Vì vậy, chúng tôi không nói về một vấn đề nguyên tắc mà hoàn toàn không thể chấp nhận được. Thứ hai, để hoàn thành công việc cần thiết để đưa bộ máy quốc tế thành hiện thực theo tinh thần mà cả hai bên đều cùng quan tâm là không kết thúc chiến tranh theo cách nó chỉ là khởi đầu của một vòng xung đột khác. Vì vậy, chúng ta đang ở trong một vị trí mà hòa bình có thể ở gần nhưng hòa bình đòi hỏi một quyết định. Đây là lý do tại sao chúng tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa thái độ căn bản của chúng tôi là gì. “Đối với Sài Gòn, chúng tôi rất thông cảm và thương xót cho nỗi thống khổ của người dân và những lo ngại của chính phủ. Nhưng nếu chúng ta có thể có được một thỏa thuận mà Tổng thống xem xét là chính đáng, chúng ta sẽ tiến hành với nó. “Đối với Hà Nội, mục tiêu căn bản của chúng tôi đã được nêu trong cuộc họp báo ngày 26 tháng 10. Chúng tôi muốn một cuộc chấm dứt chiến tranh là một điều gì đó hơn là cuộc đình chiến. Chúng tôi muốn chuyển từ thù địch sang bình thường hóa và từ bình thường hóa sang hợp tác. Nhưng chúng tôi sẽ không làm
339-370 / 428-S / 80004710 Quan hệ đối ngoại, 1969-1976, tập IX, Giải quyết là một hình thức ngụy trang của chiến tranh tiếp tục và mang lại bằng cách gián tiếp điều mà chúng ta luôn nói rằng chúng ta sẽ không dung thứ. “Chúng tôi luôn tuyên bố rằng một giải pháp công bằng không thể cung cấp cho cả hai bên những gì nó muốn. Chúng tôi không tiếp tục một cuộc chiến để giành chiến thắng hoàn toàn cho các đồng minh của chúng tôi. Chúng tôi muốn cho họ một cơ hội hợp lý để tham gia vào một cấu trúc chính trị, nhưng chúng tôi cũng sẽ không thực hiện một thỏa thuận nào là một hình thức chiến thắng trá hình cho phía bên kia.” (Bản tin của Bộ Ngoại giao, ngày 8 tháng 1 năm 1973, trang 36-37; Tuyên bố mở đầu của Kissinger và đoạn trích từ phiên hỏi đáp cũng được in trên tờ Washington Post, ngày 17 tháng 12 năm 1972, trang A9) Về cuộc họp báo, Kissinger sau đó quan sát: Tôi đã được yêu cầu đưa ra một bản tóm tắt  về các lý do cho việc tạm dừng các cuộc đàm phán ở Paris; làm thế nào để giảm nhẹ (low-key) một biến cố kịch tính đến thế thì không rõ ràng (was no more apparent) đối với tôi ở Washington hơn là trước đó ở Paris. Tuy nhiên, như ông đã ghi lại trong hồi ký của mình, “tôi không phản đối nhiệm vụ này; thực tế, tôi tình nguyện cho nó.” (Những Năm Nhà Trắng, trang 1449)
Bản dịch Việt ngữ Hoàng Hoa
Note: “Đối với Sài Gòn, chúng tôi rất thông cảm và thương xót cho nỗi thống khổ của người dân và những lo ngại của chính phủ…”
Kissinger xem Sàigòn là một lãnh thổ, hay một quốc gia, chính quyền Miền Nam Việt Nam, SVN, nȇn Kissinger nói “their people,” người dân của chính quyền Miền Nam Việt Nam.


-----

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2020

FOREIGN RELATIONS OF THE UNITED STATES 1969-1976 Part3 Memorandum From Secretary of Defense Laird to President Nixon

FOREIGN RELATIONS OF THE UNITED STATES 1969-1976
VIETNAM OCTOBER 1972 - JANUARY 1973
(FOREIGN RELATIONS of THE UNITED STATES, 1969-1976 Vol. IX, Vol. X)
Documents Excerpts for the Strategic Studies for The Republic of Vietnam

Kính thưa quý thân hữu:
Có lẽ chúng ta ít ai biết về việc Hoa Kỳ tăng viện cho VNCH vào những ngày trước Hiệp Ðịnh Paris 1973. Sự tăng viện này lần đầu đã được Kissinger báo cho Tổng Thống Thiệu biết. Chúng ta thật sự chưa rõ sự tăng viện này đã được các chỉ huy quân sự VNCH biết không và súng đạn và trang bị có được sẳn sàng cho mặt trận không. Báo cáo tăng viện cho VNCH là các thư của Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Melvin Laird gởi đến TT Richard Nixon và thư của Ðại biểu An Ninh Quốc Gia Tướng Haig gởi đến Shillitoe thuộc Quân Nhu Tiếp Vận Hoa Kỳ.
Trong hai bản tường trình Ghi nhớ này có đề cập đến bom CBU-55 (được sản xuất có giới hạn) vì vậy những quả CBU-55 thả xuống Xuân Lộc phải được chuyển đến VIệt Nam trước lúc này. Các bom CBU-55 được xem là tối hậu để quyết định cuộc chiến, nhưng thực tế chúng có thể sử dụng tại mặt trận Phước Long khi quân CSBV tập trung một lực lượng đông đảo nhằm mở con đường ngắn nhất xuống Sàigòn. Sau cùng hai trái CBU-55 bắt buộc phải sử dụng tại Xuân Lộc ngăn chận quân CSBV tiến đến Sàigòn cũng như không thể để hai quả bom này lọt vào tay CSBV. Sơ khởi, chi phí tăng viện tốn kém khoảng ít nhất 300 triệu đô la. Vũ khí này sẽ được sử dụng sau khi Mỹ rút quân,tức 60 ngày sau ngày 27/1/1973. Như vậy từ 27/3/1973 đến 30/4/1975 chỉ vỏn vẹn hai năm thì miền Nam lọt vào tay cộng sản, số quân trang quân dụng này có thể chưa xài hết. Nếu xem xét kỹ tình huống ở Miền Nam VN lúc bấy giờ với các tài liệu mà chúng ta biết được, chúng ta có thể biết sự thất trận của Miền Nam Việt Nam do chính trị hay quân sự từ đó có thể phán đoán tình hình lãnh đạo miền Nam lúc bấy giờ.
Trong bài tới chúng ta sẽ xem những lý do dẫn đến cuộc ném bom miền Bắc Việt Nam. Đây có thể là ván bài quyết liệt nhất mà Hoa Kỳ tung ra nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam. Cuộc ném bom này là đề nghị của Kissinger cho TT Richard Nixon, nó được xem là một trận ném bom nguyȇn tử thu nhỏ xuống Hiroshima bắt buộc quân Nhật đầu hàng, nhưng Hoa Kỳ không muốn Bắc Việt đầu hàng.
Trân trọng,
HH


 “We believe that peace is at hand", Letter From President Nixon to South Vietnamese President Thieu, Message From the Ambassador to Vietnam (Bunker) to the President’s Deputy Assistant for National Security Affairs (Haig), Preface.
Message From the President’s Assistant for National Security Affairs (Kissinger) to the Ambassador to Vietnam (Bunker),

Part 3
Memorandum From Secretary of Defense Laird to President Nixon1 Washington

111.  Memorandum From Secretary of Defense Laird to President Nixon1 Washington, November 17, 1972.
SUBJECT Expedited Delivery of Matériel to the RVNAF (Project Enhance Plus) Enhance Plus is completed.
All items are delivered in-country or enroute by surface shipping.  Cooperation of the Services, JCS, field commands, State and your Ambassadors has been outstanding. I am going to briefly summarize this effort. Enhance Plus was designed to accelerate deliveries of approved Vietnamization equipment programs and to further enhance the logistics and tactical capability of the RVNAF.  This program started with the preparation of a very close hold shipping list on 14 October.  It consisted of 29 Army items and 9 Air Force items.  I was instructed to execute expedited deliveries of the 29 Army items and a revised list of Air Force items, to arrive in RVN by 1 November 1972, utilizing airlift.  The revision provided C–130’s, an increase in the quantity of A–37B’s and F–5A’s, and reduced the number of Air Force items to seven. Over the weekend of 21 October, 39 M–113’s were airlifted and other equipment moved to aerial ports. In fact, by 6:00 A. M. on the morning of 21
October 24 – December 13, 1972 417
October, 7,000 tons of matériel had been offered for shipment.  On 22 October at about noon this program was stopped. Equipment at the aerial ports was returned to originating stations.  Equipment enroute was allowed to go.  I should mention here that had this program continued, we would have met the 1 November date. The program was reinstated on 25 October with a new deadline date.  This date was originally 20 November but was subsequently advanced to 15 November.  It required matériel to be in country or enroute by this date.  Being concerned that an acceleration might develop and being desirous of some cushion, I decided that we would all plan to meet a 10 November date rather than 15 November.  By 10 November all Enhance Plus was to be either delivered or enroute in international waters to Vietnam.  This entire program was accomplished in just 16days. The 29 Army items and seven Air Force were subsequently increased to include one tactical radar system at Danang and 31 Marine Corps amphibious vehicles.  Also, the program included reference to the ROK forces in Vietnam, providing that equipment of four of the six ROK brigades are to be transferred to the ARVN. To implement this program the efforts of the Services, JCS and OSD were marshaled to provide a responsive coordinated effort.  Logistics Operations Centers were established in all appropriate headquarters and operated around the clock. The logistics results of this 16day effort is portrayed in the following summary: Army—All 29 Project Enhance items are delivered or enroute by ship to Vietnam.  Manifest data on the ships still at sea is attached. Air Force—The program is complete.  All AC–119K’s (22), A–37B’s(90), 32 C–130A’s, 277 UH–1H’s, and 116 F–5A’s have been delivered. Nineteen A–1’s are in country and nine are enroute by sealift.  Eight hundred two of the 855 vehicles are delivered and 53 vehicles enroute from CONUS and PACOM.  The Tactical Radar System for Danang has been delivered in-country by airlift. Marine Corps—The Marine Corps Amphibious Vehicles have been delivered. Shipping—Thirteen ships are enroute at present (10 from CONUS, Enclosure 3, and three from PACOM, Enclosure 4).  Attached as Enclosure 5 is a listing of ships and the Enhance Plus cargo which they are carrying.  This Enhance Plus cargo, of course, is in addition to other cargo related to Enhance and Crimp. Title Transfer of Equipment—For all those Enhance Plus items that have not been physically turned over to the RVNAF by 10 November
418   Foreign Relations, 1969–1976, Volume IX (regardless of location, e. g. , on the water and in US custody in-country), MACV has confirmed that title has been transferred to the RVNAF. Secondary Items—The delivery of secondary items has been expedited concurrently with Enhance Plus major items.  Since replenishment of these items should continue indefinitely, supply operations will be normalized and the one year in-country requisition objective maintained. Ammunition— Desired stockage objectives (90 days for ARVN, 120 days for VNAF and VNN) have been achieved with the exception of CBU–55’s, 60mm mortar illuminating and Claymore mines, which are production limited, but with substitutes available. POL—Available secured tankage is near capacity (approximately one million barrels or about 60 days of supply) and the commercial pipeline is adequate to replenish consumption. Contract Support— Our initial estimate of the amount of annual contract support that will be required to sustain the RVNAF after US military withdrawal, approximates $200 million.  We will continue to work with the Services and the JCS as the new organizations in Southeast Asia take shape, in order to insure that adequate controls are maintained over the contracts remaining in-country.  We visualize a small coordination staff element in the Defense Resource Surveillance Termination Office (DRSTO) with the Services retaining basic contract administration responsibility. Base Transfers— All military facilities have been transferred to either the GVN/RVNAF or the Embassy.  The Ambassador has requested 23 military facilities and six leased facilities to be transferred to the Embassy and retained for civil agency use. Costs— The Services have estimated the operating cost impact of Enhance Plus to be $100 million— Army $35. 5 million, Air Force $63. 7 million, and Navy $1 million. On a category basis, $38. 2 million is for matériel cost, $40. 5 million for transportation cost and $21. 5 million for operating cost.  The replacement costs on a preliminary basis are approximately $500 million ($50 million Army and $450 million Air Force). The $500 million replacement cost of Enhance Plus is principally for aircraft programs not previously programmed, such as the C–130and the 277 UH–1H’s, and above program Army ground equipment. The total excludes value of equipment which had been programmed and was delivered on an accelerated basis, the ROKV and other MAP equipment, and the matériel transferred with the current base turnovers, which may total several hundred million dollars additional. The cost estimates are being examined in detail by my Comptroller.  They are unbudgeted costs which should be added to the Defense FY 1973
October 24–December 13, 1972 419
budget to the extent they cannot be offset by savings in other Southeast Asia operations. Enhance Plus is thus completed. Melvin R.  Laird

111. Bản ghi nhớ từ Bộ trưởng Quốc phòng Laird đến Tổng thống Nixon1 Washington, ngày 17/11/1972.

Chủ đề Chuyển giao nhanh Vật liệu quân sự cho RVNAF (Project Enhance Plus) Enhance Plus đã hoàn tất.

Tất cả các mặt hàng được giao trong nước hoặc trên đường vận chuyển bằng phương tiện bề mặt. Sự hợp tác của các Dịch vụ, JCS, các lệnh tại chỗ, Tiểu Bang và Đại sứ của bạn đã rõ rệt. Tôi sẽ tóm tắt ngắn gọn nỗ lực này. Enhance Plus được thiết kế để đẩy nhanh việc cung cấp các chương trình thiết bị cho Chương trình Việt Nam hóa đã được phê duyệt và để tăng cường hơn nữa khả năng quân nhu tiếp vận và chiến thuật của RVNAF. Chương trình này bắt đầu với việc chuẩn bị một danh sách vận chuyển giữ rất chặt chẽ vào ngày 14 tháng Mười. Nó bao gồm 29 mặt hàng Quân đội và 9 mặt hàng Không quân. Tôi được giao nhiệm vụ thực hiện việc giao hàng nhanh trong số 29 mặt hàng của Quân đội và một danh sách sửa đổi các mặt hàng của Không quân, đến RVN trước ngày 1 tháng 11 năm 1972, sử dụng đường hàng không. Bản sửa đổi đã cung cấp các C-130, tăng một số lượng của A-37B và F-5A, và giảm số lượng mặt hàng của Không quân xuống còn bảy. Trong cuối tuần của ngày 21 tháng 10, 39 M-113 đã được không vận và các thiết bị khác được chuyển đến các phi cảng. Thực tế, đến 6:00 sáng ngày 21

24 tháng 10 - 13/12/1972

Tháng 10, 7.000 tấn vật liệu quân sự đã được cung cấp cho vận chuyển. Vào ngày 22 tháng 10 vào khoảng buổi trưa, chương trình này đã dừng lại. Thiết bị tại các cảng hàng không được đưa trở lại các trạm ban đầu. Thiết bị đang trȇn đường đã được phép ra đi. Tôi nên đề cập ở đây nếu chương trình này đã tiếp tục, chúng tôi sẽ gặp ngày 1 tháng 11. Chương trình đã được phục hồi (reinstated) vào ngày 25 tháng 10 với ngày hết hạn mới. Ngày này ban đầu là ngày 20 tháng 11 nhưng sau đó đã dời đến ngày 15 tháng 11. Nó yêu cầu vật liệu quân sự  phải ở trong nước hoặc đang trȇn đường đi trước ngày này. Lo ngại rằng một sự tăng tốc có thể phát triển và mong muốn một ít đệm (some cushion,) tôi quyết định rằng tất cả chúng ta sẽ có kế hoạch đón nhận ngày 10 tháng 11 thay vì ngày 15 tháng 11. Đến ngày 10 tháng 11, tất cả Enhance Plus sẽ được chuyển giao hoặc trȇn đường đến tại các vùng biển quốc tế đến Việt Nam. Toàn bộ chương trình này đã được thực hiện chỉ trong 16 ngày. 29 mặt hàng của Quân đội và bảy Không quân sau đó đã được tăng lên để bao gồm một hệ thống radar chiến thuật tại Đà Nẵng và 31 phương tiện đổ bộ của Thủy quân lục chiến. Ngoài ra, chương trình bao gồm tài liệu tham khảo cho lực lượng ROK tại Việt Nam, với điều kiện là thiết bị của bốn trong số sáu lữ đoàn ROK sẽ được chuyển đến QLVNCH. Để thực hiện chương trình này, các nỗ lực của Dịch vụ, JCS và OSD đã được chỉ thị để cung cấp một nỗ lực phối hợp đáp ứng. Các Trung tâm Ðiều hành Quân nhu được thành lập trong tất cả các trụ sở hành quân thích hợp và hoạt động suốt ngày đêm. Kết quả quân vận của nỗ lực 16 ngày này được mô tả trong bản tóm tắt sau:

Quân đội Tất cả 29 vật liệu quân sự Nâng cao Dự án được giao hoặc chuyển bằng tàu đến Việt Nam. Dữ liệu kê khai trên các tàu vẫn còn trên biển được đính kèm.

Air Force - Chương trình hoàn tất. Tất cả các AC-119K  (22), A - 37B  (90), 32 C-130A,, 277 UH-1H, và 116 F- 5A đã được giao. Mười chín A-1 đang ở trong nước và chín đang chuyển đi bằng không vận. Tám trăm lẻ hai trong số 855 xe được giao và 53 xe trên đường từ CONUS và PACOM. Hệ thống Radar chiến thuật cho Đà Nẵng đã được vận chuyển trong nước bằng máy bay.

Thủy quân lục chiến. Các phương tiện đổ bộ của Thủy quân lục chiến đã được chuyển giao.

Vận chuyển. Mười ba tàu đang trên đường ngay lúc này (10 từ CONUS, Ðính kèm 3 và ba từ PACOM, Ðính kèm 4.) Kèm theo là Ðính kèm 5 là danh sách các tàu và hàng hóa Enhance Plus mà chúng đang chuyȇn chở. Tất nhiên, hàng hóa Enhance Plus này cộng thȇm với các hàng hóa khác liên quan đến Enhance và Crimp. Tựa đề chuyển giao thiết bị - cho tất cả những vật liệu quân sự nào của Enhance Plus mà chưa được cụ thể bàn giao cho RVNAF vào ngày 10 tháng 11.

Quan Hệ Ðối Ngoại 418 1969-1976, Tập IX (không phân biệt địa điểm, ví dụ, trên mặt nước và tại Hoa Kỳ bị giữ trong nước), MACV đã xác nhận rằng tựa đề đã được chuyển cho RVNAF.

Các mặt hàng phụ - Việc phân giao các mặt hàng thứ cấp đã được tiến hành nhanh chóng đồng thời với các mặt hàng chính của Enhance Plus. Vì việc bổ sung các mặt hàng này sẽ tiếp tục vô thời hạn, các hoạt động cung ứng sẽ được bình thường hóa và mục tiêu yȇu cầu trong nước một năm được duy trì.

Các mục tiêu dự trữ đạn dược mong muốn (90 ngày đối với QLVNCH, 120 ngày đối với VNAF và VNN) đã đạt được ngoại trừ các CBU -55, đạn súng cối chiếu sáng 60mm và mìn Claymore, những thứ được sản xuất có giới hạn, nhưng có sẵn sản phẩm thay thế. PO sự tồn trữ xăng dầu bảo đảm có thể gần công suất (khoảng một triệu thùng hoặc khoảng 60 ngày cung cấp) và đường ống thương mại là đủ cân đối để châm thȇm vào sự tiêu thụ.

Hỗ trợ hợp đồng - Các ước tính ban đầu của chúng tôi về số tiền hỗ trợ hợp đồng hàng năm sẽ được yêu cầu để duy trì RVNAF sau khi quân đội Hoa Kỳ rút lui, xấp xỉ 200 triệu đô la. Chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc với Dịch vụ và JCS khi các tổ chức mới ở Đông Nam Á hình thành, để đảm bảo rằng các biện pháp kiểm soát đầy đủ được duy trì đối với các hợp đồng còn lại trong nước. Chúng tôi hình dung một yếu tố ban nhân viên hợp tác nhỏ trong Văn phòng Chấm Dứt Quan sát Tài nguyên Quốc phòng (DRSTO) với các Dịch vụ giữ trách nhiệm quản trị hợp đồng cơ bản.

Những Chuyển Giao Căn cứ - Tất cả các cơ sở quân sự đã được chuyển giao cho GVN /RVNAF hoặc Đại sứ quán. Đại sứ đã yêu cầu 23 cơ sở quân sự và sáu cơ sở cho thuê được chuyển đến Đại sứ quán và được giữ lại để cho cơ quan dân sự sử dụng.

Giá cả - Dịch vụ đã ước tính tác động chi phí hoạt động của Enhance Plus là 100 triệu đô la - Quân đội 35, 5 triệu đô la - Không quân 63, 7 triệu đô la, và Hải quân 1 triệu đô. Trên căn bản danh mục, $ 38.2 triệu là trị giá vật liệu quân sự, $ 40,5 triệu cho chi phí vận chuyển và 21,5 triệu đô la cho chi phí vận hành. Chi phí thay thế trên căn bản sơ khởi là khoảng 500 triệu đô la (Quân đội 50 triệu đô la và Không quân 450 triệu đô la). Chi phí thay thế 500 triệu đô la của Enhance Plus chủ yếu dành cho các chương trình máy bay chưa được lập trình trước đó, chẳng hạn như nhng C-130 và 277 UH-1H, và các thiết bị mặt đất của Quân đội chương trình bȇn trên. Tổng giá không bao gồm giá trị của thiết bị đã được đưa vào chương trình và được giao đi trên căn bản tăng tốc, ROKV và các thiết bị MAP khác, và các vật liệu chiến tranh được chuyển với doanh thu theo thời giá, có thể tăng thêm hàng trăm triệu đô la. Các ước tính chi phí đang được kiểm tra chi tiết bởi Comptroller của tôi. Chúng là những chi phí không có ngân quỹ tài trợ mà s được cộng thêm vào Ngân sách Quốc phòng năm 1973

Ngày 24 tháng 10 ngày 13 tháng 12 năm 1972 419

đến mức chúng không thể được trừ chȇnh lệch bằng tiền tiết kiệm trong các hoạt động khác ở Đông Nam Á. Do đó, Enhance Plus được hoàn thành. Melvin R. Laird

---

169. Message From the President’s Deputy Assistant for National Security Affairs (Haig) to the President’s Assistant for National Security Affairs (Kissinger) in Paris1Washington, December 13, 1972, 1720Z.Tohak 185/WHP 255. Deliver immediately. Ref: (A) Hakto 41, (B)Hakto 43.
616   Foreign Relations, 1969–1976, Volume IX1. DOD has begun work on preparations for the possible military actions outlined in referenced messages. I will discuss the following two actions with the President and if he approves and you subsequently concur, I will immediately order their execution in accordance with the following timetable: Time (Saigon time) Action0800, December 14 Resume reconnaissance north of the20th parallel.0800, December 14 Increase tacair sorties to 250 per day and B–52 sorties to 51.With regard to reconnaissance, some fighter escort will be necessary and use of anti-SAM missiles can be anticipated. The level of bombing of North Vietnam below 20 degrees can be increased to 400 sorties per day with return of a fifth carrier to Yankee Station. There are presently three there with one other off South Vietnam. Ordering a carrier back from the Philippines would be a prudent step and an important signal even if you subsequently decided not to raise the sortie level above 250 or order bombing North of the 20th parallel. The 250 level includes MIG cap and certain other support aircraft. I will try to determine what actual attack sortie level will be reached but it will obviously be somewhat below 250.2. If you agree, we could order preparation for mining now since a48-hour warning time is desired. We could plan to execute at first light on Saturday morning Hanoi time. In conducting the mining, diversionary attacks are desirable but not required. However, the mining aircraft should be accompanied by SAM/flak suppression aircraft. If suppression aircraft are not authorized, night delivery is necessary and feasible. Best accuracy could be obtained from daylight mining and this would insure Vietnamese observation. Weather conditions theoretically should not affect the timetable for mining.3. DOD’s two-to-three-day strike plan would be along the lines of the seven-day plan recently prepared. The plan can be executed within48 hours of decision if weather conditions permit. They are presently poor. It includes 16 transportation, power, airfield, and Radio Hanoi targets in the Hanoi area, as well as 6 communications command and control targets in the vicinity; 13 in the Haiphong area including ship-yards and docks; four other power plants north of 20 degrees; and 6 air2Hakto 41 is Document 163; Hakto 43 from Kissinger to Haig, December 13, 0831Z,is in the National Archives, Nixon Presidential Materials, NSC Files, Box 858, For the President’s Files (Winston Lord)—China Trip/Vietnam, Sensitive Camp David, Vol. XXII(2).
339-370/428-S/80004October 24–December 13, 1972  617 defense targets. A number of these targets have not previously been struck. It also includes a buffer zone package of 7 targets, but I would exclude these if the strikes were limited to two to three days.3Warm regards. End text.

339-370/428-S/80004October 24–December 13, 1972 30171.
Memorandum From Secretary of Defense Laird to the Assistant Secretary of Defense for Installations and Logistics (Shillitoe)1 Washington, October 25, 1972. SUBJECT Military Assistance to the RVNAF—Enhance Plus
It has consistently been our intent to assure that the RVNAF are adequately supplied in order to permit them to operate in the future with assurance and flexibility. The Crimp, 981/982 and Enhance programs have had this as their objective. As a result of our efforts over the past week, I would like to activate the Enhance Plus program to encompass our still to be delivered items, plus that which is foreseen as the balance of additional items still required to accomplish the Vietnamization Program. It is my intent to embark on this program, insuring its accomplishment as early as feasible with appropriate transportation modes. I also want the option of being able to accelerate this program to the maximum extent possible if necessary. The amount of tonnage shipped by normal transportation will ease the pressure on airlift should it become necessary to accelerate deliveries. The following actions are prescribed as we undertake the balance of the logistics Vietnamization effort:
1. Additional Delivery of Primary Equipment. The attached list2 of primary equipment is to be enroute or delivered to RVN as quickly as serviceable equipment can be made available, utilizing appropriate normal transportation and consistent with MACV required delivery dates. I would like for as much of this equipment as possible to be in RVN by 20 November 1972. Items, not on the attached list, but required to round out the Enhance or the Crimp list should continue to be delivered as quickly as possible using appropriate transportation.
2. Guidelines for Accomplishing the Above.• The source of the equipment may be assets in the hands of Reserve Components or Active Forces or diversions from production or indepots.1 Source: National Archives, RG 218, Records of the Chairman, Records of Thomas Moorer, Box 29, Vietnam, October 1972. Top Secret; Sensitive. Copies were sent to the Service Secretaries and the Chairman of the Joint Chiefs of Staff.2 Attached but not printed. The list is in two parts: one part shows Army equipment being sent, the other part shows Air Force aircraft.

339-370/428-S/80004302   Foreign Relations, 1969–1976, Volume IX•
Diversions from international logistics customers are also authorized.
• Marine Corps materiel located in Okinawa will not be used to meet this requirement, unless an accelerated situation requiring more expedited delivery to Vietnam is required.
• At least 32 F–5A’s will be available from Iran, using the most appropriate transportation, with the source of an additional 94 to be determined.
• The serviceable M–48A3 tanks will be moved from Sagami, Ja-pan as soon as possible to Vietnam. The balance of the M–48A3 tanks will be moved from Sagami as soon as possible after they have been overhauled.
• Retrograde from Vietnam for the items on the attached list will be discontinued.
• Title transfer of items required to be furnished the RVNAF will be accomplished as quickly as possible. This will result in title to equipment, both within and outside Vietnam, and destined for Vietnam, including that in transit, resting in the RVNAF.
3. Ammunition. Shipping and unloading of munitions will be expedited. In-country air munition stock levels will be maintained at 120-day supply based on normal consumption and in-country ground munition stock levels will be maintained at a 90-day in-country level. This will include stocks in transit in theatre.
4. POL. Maintain the full tankage policy for that storage in RVN that can be adequately secured. Sufficient floating stocks are to be maintained in RVN waters to insure resupply in the event of temporary disruption/loss of in-country stocks.
5. Secondary Items. Expedite the supply of secondary items to provide a balance with the equipment being shipped in-country. Repair parts will be provided for a one-year requisition objective for normal consumption, except intensively managed items.
6. Contracts. Make necessary arrangements for Vietnamization of the on-going RVNAF support included in existing U.S. contracts. In-sure that contract augmentation of the RVNAF is sufficient to continue essential logistics services without U.S. military presence in-country. Contract support will be provided as soon as possible to assure adequate levels of receipt, care, preservation, storage and security.
7. Closed Loop Maintenance. Will be continued for an indefinite period.
8. Bases. Turn over all remaining U.S. Bases to SVN.
9. Sealift and Airlift. In conjunction with the Joint Staff, establish the necessary allocation controls and priorities of movement to assure movement of materiel. The logistics actions outlined above are consistent with the overall objectives of our Vietnamization Program. If acceleration of the schedule is required to move items in-country, airlift will be used to the
339-370/428-S/80004October 24–December 13, 1972 303
maximum unless previously mentioned title transfer arrangements can satisfy the requirement. I would like to be informed and approve items on this schedule that will not be in-country or enroute by 20 November 1972. It is further my desire that should title transfer arrangements not satisfy ownership needs, and should we be required to accelerate this program, all materials on the attached list, except those delivered or at sea enroute, be available for delivery in-country within 15 days after directed to proceed on an accelerated basis. This may involve the delivery of some unserviceable materials. In addition to those items contained in the attached list, State/Defense negotiations are to proceed to obtain equipment from four ROK Brigades now deployed in SVN. This equipment is not to be considered as assets against the attached list. This program will have the highest priority immediately behind the support of U.S. and RVNAF forces engaged in combat in SEA. I would like to have a weekly report on the status of delivery of these major items of equipment and periodic reports covering the balance of the assigned tasks. These reports will terminate upon completion of deliveries under Enhance Plus.
Melvin R. Laird
---

Bản ghi nhớ từ Bộ trưởng Quốc phòng Laird đến Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về Lắp đặt và Quân nhu (Shillitoe) 1 Washington, ngày 25 tháng 10 năm 1972. Chủ đề Trợ giúp Quân sự cho VNCH Enhance Plus

Bản dịch Hoàng Hoa
Chúng tôi luôn có ý định đảm bảo rằng RVNAF (Quân Lực VNCH) được cung cấp đầy đủ để cho phép họ hoạt động trong tương lai với sự đảm bảo và linh hoạt. Các chương trình Crimp, 981/982 và Nâng Cao (Enhance) đã coi đây là những mục tiêu chính. Kết quả những nỗ lực của chúng tôi trong tuần qua, tôi muốn khởi động (activate) chương trình Enhance Plus (Nâng Cao Hơn) để bao gồm các món hàng vẫn còn được giao đi của chúng tôi, cộng với đó là dự kiến khi số dư của các mặt hàng được cộng thȇm vẫn cần để hoàn thành Chương trình Việt Nam hóa. Ý định của tôi là đi vào chương trình này, đảm bảo hoàn thành sớm nhất có thể với các phương thức vận chuyển phù hợp. Tôi cũng muốn tùy chọn có thể tăng tốc chương trình này đến mức tối đa có thể nếu cần thiết. Lượng trọng tải được vận chuyển bằng phương tiện vận chuyển thông thường sẽ giảm bớt áp lực cho vận tải hàng không nếu cần thiết để tăng tốc độ việc giao hàng. Các hành động sau đây được biȇn nhận khi chúng tôi thực hiện cân bằng tiếp liệu cho nỗ lực Việt Nam hóa:
1. Giao thêm các trang bị chính yếu. Danh sách đính kèm2 của thiết bị chính yếu sẽ trȇn đường đi hoặc giao cho RVN càng nhanh chóng để những trang thiết bị hiệu quả này có thể đưa vào sử dụng, sử dụng vận chuyển bình thường thích hợp và theo đúng với ngày giao hàng MACV yêu cầu. Tôi muốn có càng nhiều thiết bị này càng tốt giao cho RVN trước ngày 20 tháng 11 năm 1972. Các mặt hàng, không có trong danh sách đính kèm, nhưng được yêu cầu làm tròn danh sách Nâng cao hoặc Danh sách uốn nên tiếp tục được cung cấp nhanh nhất có thể bằng các vận chuyển phù hợp.2. Hướng dẫn hoàn thành phần trên. • Nguồn của thiết bị có thể là tài sản trong tay của các Thành phần Dự trữ hoặc Lực lượng Tích cực hoặc chuyển hướng từ sản xuất hoặc đang tồn kho (in depots).1 Nguồn: Lưu trữ Quốc gia, RG 218, Hồ sơ của Chủ tịch (Chairman,) Hồ sơ của Thomas Moorer, Hộp 29, Việt Nam, Tháng 10 Năm 1972. Tối mật; Nhạy cảm. Các bản sao đã được gửi đến Thư ký Dịch vụ và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân.
2. Đính kèm nhưng không được in. Danh sách này gồm hai phần: một phần cho thấy thiết bị của Quân đội được gửi đi, phần còn lại cho thấy máy bay của Không quân. 2 Đính kèm nhưng không được in. Danh sách này gồm hai phần: một phần cho thấy thiết bị của Quân đội được gửi đi, phần còn lại cho thấy máy bay của Không quân. 2 Đính kèm nhưng không được in. Danh sách này gồm hai phần: một phần cho thấy thiết bị của Quân đội được gửi đi, phần còn lại cho thấy máy bay của Không quân.
339-370 / 428-S / 80004302 Quan hệ đối ngoại, 1969 -1976, Tập IX •
Sự đa dạng từ khách hàng Quân nhu quốc tế cũng được ủy quyền.
• Vật liệu của Thủy quân lục chiến đặt tại Okinawa sẽ không được sử dụng để đáp ứng yêu cầu này, trừ khi tình huống tăng tốc đòi hỏi phải giao hàng nhanh hơn tới Việt Nam.
• Ít nhất 32 F F 5A sẽ có sẵn từ Iran, sử dụng phương tiện vận chuyển phù hợp nhất, với nguồn bổ sung 94 đang được quyết định.
• Xe tăng M - 48A3 đang hiệu lực sẽ được chuyển từ Sagami, Ja-pan càng sớm càng tốt đến Việt Nam. Sự cân bằng của xe tăng M hạng 48A3 sẽ được chuyển từ Sagami càng sớm càng tốt sau khi chúng được đại tu.
• Việc rút lui từ Việt Nam cho các mục trong danh sách đính kèm sẽ bị ngưng.
• Việc chuyển giao tựa đề của các vật phẩm cần thiết để được trang bị RVNAF sẽ được hoàn thành nhanh nhất có thể. Điều này sẽ dẫn đến tựa đề cho thiết bị, cả trong và ngoài Việt Nam, và hướng đến Việt Nam, bao gồm cả việc quá cảnh, nghỉ ngơi trong RVNAF.
3. Đạn dược. Vận chuyển và bốc dỡ đạn dược sẽ được xúc tiến nhanh chóng. Mức tồn kho đạn dược không quân trong nước sẽ được duy trì ở mức cung cấp 120 ngày dựa trên mức tiêu thụ bình thường và mức dự trữ đạn dược trên mặt đất trong nước sẽ được duy trì ở mức 90 ngày trong nước. Điều này sẽ bao gồm các dự trữ quá cảnh tại chiến trường.
4. POL. Duy trì chính sách lưu trữ đầy đủ cho tồn kho đó trong RVN có thể được an toàn đầy đủ. Các kho dự trữ nổi đủ sẽ được duy trì trong vùng biển của VNCH để đảm bảo nguồn cung tiếp tế trong trường hợp tạm thời bị gián đoạn hay mất các tồn kho trong nước.
5. Mục phụ. Xúc tiến việc cung cấp các mặt hàng thứ cấp để cung cấp sự cân bằng với các trang thiết bị được vận chuyển trong nước. Các vật liệu cần sửa chữa sẽ được cung cấp trong một năm theo yều cầu đối với mức tiêu thụ bình thường, ngoại trừ các mặt hàng được quản lý chặt chẽ.
6. Hợp Ðồng. Làm các sắp xếp cần thiết cho Chương trình Việt Nam hóa hỗ trợ RVNAF đang diễn ra có trong các hợp đồng hiện tại của Hoa Kỳ. Chắc chắn rằng sự  tăng cường hợp đồng cho RVNAF là đủ để tiếp tục các dịch vụ Quân nhu thiết yếu mà không có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ trong nước. Hỗ trợ hợp đồng sẽ được cung cấp càng sớm càng tốt để đảm bảo đủ mức độ nhận, chăm sóc, bảo quản, lưu trữ và bảo mật.
7. Sự Bảo trì Ðóng. Sẽ được tiếp tục trong một khoảng thời gian không xác định.
8. Các Căn cứ. Chuyển giao tất cả các Căn cứ Hoa Kỳ còn lại sang SVN.
9. Vận Chuyển Ðường Biển và Hàng Không. Kết hợp với Bộ tham mưu Hổn Hợp, thiết lập các kiểm soát phân bổ cần thiết và các ưu tiên của các vận chuyển để đảm bảo sự di chuyển của vật liệu. Các hành động Quân nhu được nêu ở trên phù hợp với các mục tiêu chung của Chương trình Việt Nam hóa của chúng tôi. Nếu cần tăng tốc lịch trình để di chuyển các vật phẩm trong nước, thì vận chuyển hàng không sẽ được sử dụng đến mức
339-370 / 428-S / 80004Tháng 24 ngày 13 tháng 12 năm 1972 303
tối đa trừ khi các thỏa thuận chuyển tiêu đề được đề cập trước đây có thể đáp ứng yêu cầu. Tôi muốn được thông báo và phê duyệt các mục trong lịch trình này sẽ không ở trong nước hoặc đang đến trước ngày 20 tháng 11 năm 1972. Tôi mong muốn hơn nữa là nếu các thỏa thuận chuyển nhượng tiêu đề không đáp ứng nhu cầu sở hữu và nếu chúng tôi được yêu cầu đẩy nhanh chương trình này, tất cả các vật liệu trong danh sách đính kèm, ngoại trừ những vật liệu được giao hoặc trên đường biển, sẽ có sẵn để giao trong nước trong vòng 15 ngày sau khi được hướng dẫn để tiến hành trên căn bản tăng tốc. Điều này có thể liên quan đến việc cung cấp một số vật liệu không dùng được. Thȇm vào các vật liệu có trong danh sách đính kèm, các cuộc đàm phán của Bộ Ngoại Giao/Quốc phòng cần được tiến hành để có được thiết bị từ bốn Lữ đoàn ROK đang hiện được triển khai tại SVN. Trang thiết bị này không được coi là tài sản đối ngược với danh sách đính kèm. Chương trình này sẽ có mức độ ưu tiên cao nhất ngay sau sự hỗ trợ của các lực lượng Hoa Kỳ và RVNAF tham gia chiến đấu tại ĐNÁ. Tôi muốn có một báo cáo hàng tuần về tình trạng giao các mặt hàng thiết bị chính này và các báo cáo định kỳ bao gồm số cân bằng của các nhiệm vụ được chỉ định. Các báo cáo này sẽ chấm dứt sau khi hoàn thành việc giao hàng theo thời hạn Chương Trình Enhance Plus.
Melvin R. Laird
Bản dịch Hoàng Hoa, EIC VNR Vietnam Review
---
Note by Hoàng Hoa:
1.    RVNAF: Republic of Vietnam Armed Forces, Quân Lực VNCH
2.    Sự Bảo Trì Ðóng: Closed Loop Maintenance
3.    Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân: Chairman of the Joint Staff
4.    ROK: Republic of Korea, Nam Hàn (South Korea)
5.    Chương Trình Việt Nam Hóa: Vietnamization
6.    Quân nhu: Logistics
7.    ÐNÁ: Ðông Nam Á (South East Asia)