Di Sản Trúc
Phương (The Legacy of Truc Phuong)
Khi một người
lúc sống đã tạo nȇn một sự nghiệp về văn hóa hay tinh thần lưu lại cho thế hệ
mai sau, thì khi người đó qua đời sự nghiệp đó là một di sản hay legacy để lại
cho hậu thế. Khi đón nhận Legacy, người thừa hưởng gọi là thừa hưởng di sản một
di sản (heritage.) Toàn bộ di sản (legacy) của Trúc Phương được thế hệ hiện nay
trong nước thừa kế (inherited.) Sự thừa kế di sản này từ di sản Trúc Phương – và
nhiều nhạc sĩ VNCH khác trước 30/4 năm 1975 khi Sài Gòn sụp đổ - đã cho thấy một
“lỗ trống khổng lồ” (huge emptiness) trong sinh hoạt văn hóa trong nước hiện
nay dưới chế độ cộng sản.
Chúng ta có
thể nói các tầng lớp hiểu biết và giới trẻ trong nước hiện nay đang khao khát một
tình yȇu chân thật, tình yȇu đôi lứa. Họ cảm nhận một nổi đau ngăn cách chân thật
trong mùa chinh chiến giữa người tình nơi hậu phương khi chia tay người lính
VNCH trȇn đường ra mặt trận và đó là những trang sử anh hùng cho dù người lính
VNCH ngày ấy đã nằm xuống giữa lòng đất mẹ hay bạt ngàn khắp bốn phương trời. Từ
khi họ sinh ra dưới chế độ cộng sản, họ chưa bao giờ biết những cuộc tình chân
thật đó, và bây giờ họ biết rằng những người lính VNCH ngày ấy là con người bằng
xương thịt, biết cảm nhận tình yȇu và ngăn cách, biết khóc, biết đau thương, có
lòng yȇu nước và chia tay với người yȇu ra đi vì quȇ hương đất nước.
Người lính
quân đội nhân dân của VC không có những liȇn hệ tình cảm với những người tình nơi
hậu tuyến như vậy. Những cán binh cộng sản, quân đội nhân dân VC, thiếu vắng
tình yȇu nhân bản, một thứ xa xỉ của đế quốc, của tiểu tư sản, và phản động. Tất
cả tình cảm đó phải dấu diếm, che đậy và chưa bao giờ tình yȇu con người được
phép chen vào những quyết định của đảng đã biến các chiến binh VC như những
robot chỉ biết nhận lệnh điều khiển từ một bộ kiểm soát trung ương. “Người Con
Gái Bến Tre Võ Thị Sáu” cho chúng ta một bài tuyȇn truyền chính trị “Em đứng dưới
bóng dừa, có phải người còn đó là con gái của Bến Tre,” “Ðôi Mắt Người Sơn Tây”
của Quang Dũng trȇn đường Tây Tiến chỉ là một tình yȇu nấc nghẹn “Em mơ giùm ta
nhé, bao giờ trở lại đồng Bương Cấn, về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng, mẹ tôi em có
gặp đâu không” tình yȇu của Quang Dũng chỉ có thế! hoặc cộng sản thường ca tụng
“Con Thuyền Không Bến” của Ðặng Thế Phong, chỉ là con thuyền không bến, không
thấy gì là tình yȇu nhân bản. Bài trữ tình nhất mà được nghȇu ngao hát sau năm
1975 là “Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây,” trong đó diễn tả một tình cảm ảo
giác giữa một lính quân đội nhân dân xâm nhập miền Nam với người con gái giao
liȇn trȇn đường rừng Trường Sơn “Em đứng ở bȇn đường, như quȇ hương, vai áo bạc
quàng súng trường, đoàn quân vẫn đi vội vã, bụi Trường Sơn nhòa trong trời lạ,
chào em, em gái tiền phương, hẹn gặp em giữa Sài Gòn…” Tình yȇu đôi lứa chỉ có
vậy!
Tất cả những
bài hát đó được cơ quan tuyȇn truyền binh vận của đảng sáng tác thời vào Nam chống
Mỹ đánh Ngụy không là legacy cho những thế hệ hôm nay, và những thế hệ trẻ
trong nước hiện nay không thừa kế (inherit) những mớ thông tin không có giá trị
văn hóa đó bởi bản chất không thật, giả tạo và không chứa đựng tình yȇu con người.
Ðó là lý do
tại sao ngày nay, những sân khấu cho giòng nhạc Boléro Trúc Phương hay các nhạc
sĩ Boléro khác được tạo dựng thật lộng lẫy khắp tỉnh thành từ Hà Nội đến làng
quȇ, hằng bao cameras tập trung hướng về sân khấu, các phòng trà mọc lȇn, các câu
lạc bộ Boléro, và các nhạc sĩ guitar chơi Boléro đầy ấp trȇn Youtube™
Phải chăng
người Việt Nam trong nước đang đói văn hóa, một thứ văn hóa trong giòng nhạc mà
ngày xưa chế độ cộng sản gọi là đồi trụy và nhạc vàng. Chính từ đây, chúng ta
thật sự cảm nhận tình yȇu lớn nhất chúng ta dành cho Trúc Phương, một nhạc sĩ
trong sạch và chung thủy với lý tưởng, với người lính VNCH năm xưa, ông đã không
tham gia các tổ chức chống lại chế độ cộng sản, nhưng ông không cúi đầu trước
quyền lực cộng sản, ông đã chấp nhận cuộc sống lưu đày trȇn chính quȇ hương yȇu
dấu của ông. Nhưng cuộc lưu đày thật đầy gian khổ đã khiến ông gục ngã trước sự
cướp đoạt nhà cửa của ông, hủy hoại công trình của đời ông, làm tan nát hạnh phúc
ông, cùng với bao đau thương, thiếu thốn và bệnh tật.
Nhưng thế hệ
trẻ hôm nay khi hát giòng nhạc Boléro là một legacy của Trúc Phương để lại cho
mai sau thì họ cần phải hiểu rằng chính họ đang thừa kế (inherit) một di sản
(legacy) của Trúc Phương hay của các nhạc sĩ Boléro khác trong mùa chinh chiến
trước khi Sài Gòn sụp đỗ.
Nhạc sĩ Trúc
Phương đã để lại cho mai sau khoảng 70 bài hát theo điệu Boléro. Trong đó có 14
bài tình ca về người lính VNCH trãi dài từ năm 1957 qua bài Ðò Chiều đến năm
1973 qua bài Hai Chuyến Tàu Ðȇm viết chung với Y Vân. Cuộc đời của Trúc Phương
dường như rất cô đơn cho dù những tháng năm ông hạnh phúc với gia đình. Những
tác phẩm của ông không nói nhiều về hạnh phúc gia đình ông, và ông không sáng
tác bài nhạc nào ca ngợi hạnh phúc của ông, duy nhất có một lần 1961 ông về quȇ
Trà Vinh đứng trȇn cầu Ba Hai viết bài Chiều Làng Em để kỷ niệm ngày về quȇ
thăm làng cũ và cưới vợ khoảng năm 1962, nhưng khi đó ông thật chưa cưới vợ.
Di sản lớn
nhất của Trúc Phương đi theo với giòng nhạc Boléro từ 1957 đến 1973, theo đó
bài Ðò Chiều ông sáng tác khi còn ở Trà Vinh 1957 trước khi ông lȇn Sài Gòn lập
nghiệp, bài Tàu Ðȇm Năm Cũ 1962, Buồn Trong Kỷ Niệm 1963 và Trȇn Bốn Vùng Chiến
Thuật (1970?) được xem là 4 tuyệt tác của Trúc Phương sáng ngang với những tác
phẩm lẫy lừng của những nhà văn thế giới. Tác phẩm Ðò Chiều (1957) của Trúc
Phương xem như một cuộc chia tay qua một giòng sông vào buổi chiều tại một bến
đò hiu quạnh, người con gái lái đò đưa chàng trai qua sông, giống như một cuộc
chia tay của Kinh Kha với Thái tử nước Yȇn qua sông Dịch ra đi không trở lại. Nhưng
trong Ðò Chiều người con gái vẫn mơ một ngày chàng trai ấy trở về. Ðò Chiều diễn
tả tâm trạng ra đi của Trúc Phương khi rời làng quȇ nghèo trong thử thách, và
cũng là hành trang tài năng duy nhất Trúc Phương mang theo lȇn thành phố so tài
và lập nghiệp và hẹn ngày trở lại.
Bốn năm sau
(1961) Trúc Phương trở về quȇ cũ. Ông cưới vợ khoảng 1962.
Năm 1962 tác
phẩm lẫy lừng Tàu Ðȇm Năm Cũ (TÐNC) ra đời. Ðây là tác phẩm làm nȇn lịch sử vì là
tác phẩm đầu tiȇn nói về một chuyện tình người con gái tiễn người yȇu ra mặt trận
bằng tàu (xe) lửa trong khuya rạng sáng. Không ai có thể diễn tả hết ý tứ sâu sắc
trong bài TÐNC. Vào một đȇm khuya rạng sáng, người con gái đã ra sân ga tiễn
chàng trai người yȇu là lính đi về ngàn. Trúc Phương chọn rạng sáng, vì đã qua
một đȇm có thể hai đã ở bȇn nhau và rạng sáng vì đó là giờ phút sương khuya xuống
lạnh nhất vì sắp trở ngày và cô đơn nhất tại sân ga vì giờ đó người ngủ say nhất.
Người con gái nói “đưa tiễn người trai lính về ngàn,” về ngàn là về bạt ngàn, núi
rừng cho thấy mối tình người con gái thật vĩ đại vì nàng đã trả (thả) tự do cho
người lính về với nơi xa xăm của anh nơi chiến trường và những bạn bè anh mong đợi.
(Còn tiếp)