Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2013

 
Nghῖa Trang Quȃn Ɖội Biên Hòa vào những ngày đầu tháng 4, 2013


4, 5 ngày nay, 1 toán nhân viên của Giao Thông Vận Tải huyện Dĩ An (nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa tọa lạc theo địa danh hành chánh của chính quyền Hanoi hiện tại) đến vòng ngoài Nghĩa Trang cắm cọc "GPMB" (giải phóng mặt bằng).

- Họ cũng vào cả bên trong Nghĩa Trang, khu D3, cắm 1 loạt cọc như thế.

- Khoảng giữa 2 hàng cọc là 22 met. Toán nhân viên này cho hay, "nhà nước" sẽ làm 1 con đường đi từ phía ngoài xa lộ Saigon - Biên Hòa đâm vào trong đất Nghĩa Trang và xuyên qua Khu D3 để đi lên Bình Dương.








cọc "GPMB" vừa được cắm mấy ngày đầu tháng 4/2013 


hàng cọc đi xuyên qua Khu D3. Hàng chữ định vị ở dưới cùng bia mộ Trung Úy Nguyễn Văn Phấn: D3 / 1 / 31 





hàng cọc đi xuyên qua Khu D3




Nhận Định

Có thể đây chỉ là 1 "Dự Án", chưa xảy ra ngay vì nhiều lý do như thường thấy tại VN nhưng điều này chứng tỏ nhà nước CS Hanoi đã ngang nhiên coi thường nơi yên nghỉ của tử sỹ quốc gia VNCH. Họ ngang nhiên phóng đường xâm hại Nghĩa Trang, đâm xuyên qua phần đất Khu D3.

Nếu việc này không được báo động cho đồng bào hải ngoại biết kịp thời để các hội đoàn quốc gia hải ngoại nhanh chóng vận động mạnh bằng nhiều cách, tỉ như thông tin cho các thế lực dân cử Mỹ ủng hộ VNCH (như TNS Jim Webb chẳng hạn) thì chẳng ai dám chắc Hanoi có chùng tay hay không khi ngang nhiên phá hủy mộ phần chiến sĩ quốc gia để làm đường đi!!!

Càng chứng tỏ chính quyền CS hiện tại vẫn giữ nguyên 1 não trạng vô nhân đạo như xưa: không coi trọng Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa.

Đây là Nghĩa Trang chớ có phải là đất trống đâu mà họ ngang nhiên phóng đường đi rộng 22 met, không đếm xỉa gì tới phần mộ của bao người quá cố 40 năm qua??????

Người ta không thể không đặt câu hỏi: nếu một ngày mai đây, chế độ CS Hanoi bị sụp đổ, thì họ có nghĩ tới việc hàng hàng lớp lớp người từng là nạn nhân của các chính sách độc ác của họ 6, 7 chục năm qua xông vào phá tan Nghĩa trang Mai Dịch??? Việc đó hoàn toàn tùy thuộc vào những gì họ toan tính làm hôm nay!

Những ai quá dễ dãi và vội tin cái gọi là "nhân đạo" của CS hãy tự rút lại những gì đã tung hô vừa qua vẫn còn kịp!

LTC khấp báo từ Saigon

12/4/2013

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013


Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà

Nguyễn thị Thảo An
 

Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế hính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi. Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương. Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam. Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ. Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.


Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương. Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước. Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô. Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch. Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác,ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng. Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm. Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành lũy để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?


Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ? Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.


Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô. Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? ngày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù? Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính? Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu. Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng. Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam. Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.


Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy. Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm. Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian. Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng. Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:


Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)


Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh? Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ. Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh. Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh. Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính ? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.


Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà... Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai...


Nguyễn thị Thảo An

Những hình ảnh yêu quý trong QLVNCH .







Không biết những người lính trong những tấm hình này giờ ở đâu ?

Mong mọi điều bình an và may mắn đến với các anh.




Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

Thư gửi Ông Nguyễn Ɖạc Thành

Kính thưa quý cơ quan truyền thông báo chí, vụ việc Nghῖa Trang Quân Ɖội Biên Hoà có tính cách công chúng và liên quan đến toàn thể người Việt trong và ngoài nước. Vừa qua chúng tôi được biết có sự viện trợ nhȃn đạo mà chính phủ Hoa Kỳ dành cho các việc làm liên quan đến tử sῖ VNCH. Vì Ông Nguyễn Ɖạc Thành có những thời gian lưu trú tại Việt Nam và xuất hiện tại Nghῖa Trang Quȃn Ɖội Biên Hoà và phát biểu trên RFA rằng Ông là người làm công việc nhȃn đạo ấy nên chúng tôi buộc lòng có những cȃu hỏi cho Ông.
Xin gửi đến quý vị tường, và cũng xin quý vị ai biết email Ông xin gửi thư chúng tôi đến Ông càng sớm càng tốt.
Trȃn trọng,
Hoàng Hoa
Trưởng Ban Biên Tập Saigonfilms
04/17/2013
 
Tái bút: Thư được đăng tải và lưu trữ trên blog Quan Ɖiểm
 

--------------------------

Mạng Xã Hội Sàigon www.saigon films.com

PO Box 391063

Mountain View, Ca 94039


 

Subject: Tiền viện trợ nhȃn đạo chính phủ Hoa Kỳ giúp những việc liên quan đến tử sῖ VNCH đã đi về đȃu.

Thứ Tư 17/04/2013

Kính gửi Ông Nguyễn Ɖạc Thành:

Thưa Ông, chúng tôi là Hoàng Hoa trưởng Ban Biên Tập của Mạng Xã Hội Sàigòn, viết thư này gửi đến Ông để mong Ông sáng tỏ vài sự việc như sau:

Thưa Ông, chúng tôi được biết Ông vừa từ Việt Nam trở về và tại đó Ông có những việc làm liên quan đến tử sῖ VNCH, chúng tôi cũng được biết chính phủ Hoa Kỳ có viện trợ nhȃn đạo cho việc làm này, xin Ông vui lòng cho biết trong thời gian Ông ở Việt Nam Ông có nhận được khoản tiền nhȃn đạo này từ chính phủ Hoa Kỳ không? Nếu có thì là bao nhiêu? Số tiền ấy hiện do ai cất giữ? Trong suốt thời gian vừa qua chính phủ Hoa Kỳ đã viện trợ nhȃn đạo tất cả là bao nhiêu tiền cho Ông hay cho ai để làm những việc liên quan đến tử sῖ VNCH?

Vì thời giờ quá cấp bách cho dự án Nghῖa Trang Quȃn Ɖội Biên Hoà mà chúng tôi sẽ đệ trình lên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong nay mai trước ngày 30/04/2013. Chúng tôi sẽ không thể chờ đợi thư phúc đáp của Ông sau ngày 24/04/2013 được, vì thế nếu sau ngày ấy 24/04/2013 chúng tôi không nhận được thư Ông trả lời những cȃu hỏi nêu trên, chúng tôi sẽ buộc lòng có những ý kiến lên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mà ông không vừa ý. Khi đó là đã muộn.

Thư này được gửi đến các cơ quan truyền thông báo chí để tường vì tôi không có địa chỉ thư của Ông, nên khi Ông trả lời thư tôi, xin hãy gửi đi trên hệ thống truyền thông báo chí như vậy.

Trȃn trọng,

Hoàng Hoa

Trưởng Ban Biên Tập Saigonfilms

www.saigonfilms.com

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2013


Lời Ban Biên Tập Quan Ɖiểm:

Chưa thấy bất cứ dấu chỉ nào về “sự trùng tu” Nghῖa Trang QƉ Biên Hoà. Phải chăng việc di dời mộ của 200 tử sῖ VNCH là hình thức “trùng tu” khi thu hẹp diện tích của Nghῖa Trang cho VC xȃy dựng thêm nhà cửa? và chứng minh rằng có làm việc tìm kiếm hài cốt tử sῖ VNCH để Quốc Hội HK cho tiền? Việc Nguyễn Ɖạc Thành mời TLS Lê Thành Ȃn đến viếng Nghῖa Trang là muốn xác nhận “công trạng” mình trước Hoa Kỳ. Tiền nếu Hoa Kỳ giao cho Việt Cộng thì Nguyễn Thanh Sơn là người ký nhận. Ông Nguyễn Ɖạc Thành sẽ không nhận được tiền từ phía Hoa Kỳ. NTQƉBH coi là được sử dụng như một món đồ để bán. Việc làm cỏ, thắp vài ba nén nhang khi TLS Lê Thành Ȃn đến không gọi đó là trùng tu được.

--------

Hôm 1/3 vừa qua, tổng lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn, ông Lê Thanh Ân, đã cùng VAF Vietnamese American Foundation đến viếng nghĩa trang quân đội Biên Hòa vốn đã hoang phế lâu nay và luôn có sự lo ngại bị giải tỏa.
Trước đó, ngày 1 tháng Ba, thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn, chủ nhiệm Ủy Ban Nhà Nước Về Người Việt Nước Ngoài, cũng đã đi với VEF đến thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/bienhoa-so-army-cemtry-visit-by-us-consul-03102013143421.html

Tái thiết Nghĩa Trang Biên Hòa

Vừa từ Việt Nam trở lại Hoa Kỳ, ông Nguyễn Đạc Thành, người khởi xướng Sáng Hội Việt Mỹ VAF trình bày với Thanh Trúc hai sự kiện ông cho là rất có ý nghĩa này.
Ô. Nguyễn Đạc Thành: Mặc dù đây không phải là chính sách rõ ràng của chính phủ Hoa Kỳ, nhưng chính phủ và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ủng hộ việc làm nhân đạo của Vietnamese American Foundation và sự hiện diện của ông Tổng Lãnh Sự đã nói lên điều đó. Với tính cách cá nhân thì ông Tổng Lãnh Sự đã giúp chúng tôi rất nhiều trong vấn đề trùng tu Nghĩa Trang Biên Hòa.
Thứ hai, ông Tổng Lãnh Sự Lê Thành Ân đến để quan sát, đồng thời giúp chúng tôi làm thế nào làm việc với chính quyền địa phương cũng như chính phủ trung ương, để chúng tôi hoàn tất được công việc tu bổ nghĩa trang Biên Hòa. Sự có mặt của ông Lê Thành Ân là chất xúc tác, làm cho chúng tôi thành công từ năm 2010 tới bây giờ. Có những việc chúng tôi nêu lên mà chưa thực hiện được thì ông Lê Thành Ân cũng đã liên lạc được với chính quyền Việt Nam ở Bình Dương và chính quyền trung ương, giúp chúng tôi đẩy mạnh đẩy nhanh công việc tu bổ nghĩa trang Biên Hòa.
Trước đó là ông Nguyễn Thanh Sơn cùng với tôi đã đi thăm Nghĩa Trang Biên Hòa và cũng đã quan sát giống như ông Lê Thành Ân. Lẽ ra chúng tôi đi chung một phái đoàn, tuy nhiên ông Lê Thành Ân không kịp đi ngày đó thì ngày hôm sau ông đi với tôi. Cả hai chuyến đi của hai người là để quan sát tại chỗ, nghe đề nghị của VEF làm tiếp tục thêm những gì nữa, để linh hồn mười sáu ngàn chiến sĩ miền Nam Việt Nam có nơi an ổn để yên giấc nghìn thu.
Thủ tướng chính phủ đã chỉ thị và chấp thuận cho tu bổ Nghĩa Trang Biên Hòa, vậy thì bác thấy hổm nay Bình Dương người ta đã tu bổ, bây giờ bác Thành cần những gì xin nói rõ ràng để có sự chấp thuận cho bác Thành tiếp tục.
TT Nguyễn Thanh Sơn
Đây là một chương trình và việc làm hoàn toàn nhân đạo, không ngoài mục đích tái thiết Nghĩa Trang Biên Hòa. Riêng về anh em chúng tôi, mục đích là làm sao Nghĩa Trang Biên Hòa, biểu tượng của Nam Việt Nam, được bảo tồn, được tu bổ xứng đáng giống như những nghĩa trang khác.
Thanh Trúc: Thưa ông, khi thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn đến Nghĩa Trang Biên Hòa thì ông có đưa ra một nhận định hay một lời hứa nào không?
Ô. Nguyễn Đạc Thành: Ông Nguyễn Thanh Sơn có nói với tôi nguyên văn "Bác Thành cứ nói với anh em yên tâm tu bổ nghĩa trang, đừng làm lập dập mà mang tai tiếng". Đó là nguyên văn ông nói với tôi, đồng thời ông nói rằng "Thủ tướng chính phủ đã chỉ thị và chấp thuận cho tu bổ Nghĩa Trang Biên Hòa, vậy thì bác thấy hổm nay Bình Dương người ta đã tu bổ, bây giờ bác Thành cần những gì xin nói rõ ràng để có sự chấp thuận cho bác Thành tiếp tục".
Chúng tôi đưa ra một danh sách những điểm, những nơi cần phải tu bổ, ông thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn day qua nói với các cán bộ của Bình Dương rằng đây là những mục tiêu bên bác Thành muốn tiếp tục thì nên cố gắng có giấy tờ cho bác Thành tiếp tục.
Thanh Trúc: Có lúc nào ông đặt câu hỏi với thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn là liệu chính phủ có ý định giải tỏa Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa hay không?
Ô. Nguyễn Đạc Thành: Câu hỏi này đã được Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Mỹ, năm 2007, ông Trung Nguyễn tham tán chính trị của Tòa Đại Sứ Việt Nam nói rằng Nghĩa Trang Biên Hòa không bị phá hủy như tin đồn mà sẽ được cho thăm viếng, cho chăm sóc kỹ lưỡng. Đó là năm 2007.
Năm 2013, sự có mặt của ông Nguyễn Thanh Sơn nơi Nghĩa Trang Biên Hòa, ông Nguyễn Thanh Sơn nói với tôi là cố gắng tu bổ Nghĩa Trang Biên Hòa đẹp như những nghĩa trang khác, đừng có làm lập dập mà mang tiếng mình làm không đến nơi đến chốn. Đó là nguyên văn ông nói với tôi.

Sáng Hội Việt Mỹ VAF

tls-hoa-ky-ntbh-250.jpg
Chiều ngày 7 tháng 3 năm 2013, một phái đòan thuộc Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn do ông TLS Lê Thành Ân dẫn đầu đã đến thăm nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Photo courtesy of blog hientinhvn.
Thanh Trúc: Thưa ông Nguyễn Đạc Thành, Sáng hội Việt Mỹ VAF đã về Việt Nam và làm việc năm năm qua với sự cho phép của chính phủ Việt Nam, đặc biệt bên Bộ Ngoại Giao Việt Nam. Xin ông nhắc lại quá trình làm việc và những thành quả  đạt được?

Ô. Nguyễn Đạc Thành: Trong năm năm qua anh em chúng tôi làm việc toàn là thiện nguyện, chúng tôi chưa bao giờ nhận một đồng fund nào của chính phủ, cũng chưa bao giờ lấy đồng bạc nào của gia đình tử sĩ.
Mục tiêu của chúng tôi khi thành lập Tổng Hội H.O. và đổi tên là Vietnamese American Foundation là đem lại bình an, danh dự và công bằng cho những người đã chết và cho chúng tôi.
Trong năm năm qua chúng tôi đã tìm được trên năm trăm mộ của anh em tù cải tạo. Hiện thời ông thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn đã cho phép chúng tôi di dời hai trăm hài cốt của anh em tử sĩ đã phòng thủ Sài Gòn chôn trong ngôi mộ tập thể mà chúng tôi đang chuẩn bị thông báo cho đồng bào.
Cuộc chiến đã qua 37, 38 năm, tất cả những bên tham chiến đã đưa hài cốt lính của họ về với gia đình và những nghĩa trang rất là khang trang. Nhưng mà người lính của Nam Việt Nam thì đến bao giờ?
Ô. Nguyễn Đạc Thành
Năm năm qua chúng tôi âm thầm giúp 252 gia đình, trực tiếp hoặc gián tiếp, đem hài cốt của thân nhân về với gia đình. Mà những thân nhân này không tìm thấy hài cốt nếu không có sự giúp đỡ của chúng tôi.
Song song với công việc đó, chúng tôi đẩy mạnh làm sao nhờ phía Bộ Ngoại Giao Mỹ và nhờ nhiều người trong nước để tái tạo lại Nghĩa Trang Biên Hòa. Cuộc chiến đã qua 37, 38 năm, tất cả những bên tham chiến đã đưa hài cốt lính của họ về với gia đình và những nghĩa trang rất là khang trang. Nhưng mà người lính của Nam Việt Nam thì đến bao giờ? Nghĩa Trang Biên Hòa nhiều người kêu, nhiều người nói, nhưng chỉ nói thôi chứ không đi vào thực tế. Chúng tôi đã đi vào thực tế.
Không phải tôi làm mà những người khác làm giúp cho. Có những người trong nước, có những người ngoài nước, có những người trong chính phủ Hoa Kỳ, những anh em bên Úc, bên Đức, bên Hoa Kỳ, đóng góp một cách âm thầm. Những người Việt quốc tịch Mỹ làm trong chánh phủ Mỹ như đại tá Tôn Thất Tuấn, như ông Lê Thành Ân chẳng hạn, và một số người trên Washington DC mà tôi không đưa ra hết. Những người Mỹ chẳng hạn như thượng nghị sĩ Jim Web, chẳng hạn như ông Brian Eggerler tham tán chính trị Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội. Tất cả những nỗ lực đó đưa tới kết quả ngày hôm nay.
Thanh Trúc: Xin cảm ơn ông Nguyễn Đạc Thành.

Mỹ ngưng viện trợ Việt Nam tìm kiếm hài cốt liệt sĩ

 
Hoa Kỳ đã ngưng chương trình viện trợ cho Việt Nam tìm kiếm những người lính mất tích trong chiến tranh cho đến khi nào Hà Nội hứa sẽ tìm kiếm cả những người lính mất tích không thuộc quân đội Cộng sản.
RFA 30.09.2011
     
Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb cho biết như vậy ngày hôm nay.
Hồi tháng 1 năm nay, đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam thông báo hai nước đã ký một thỏa thuận trị giá 1 triệu đô la kéo dài hai năm để Hoa Kỳ giúp Việt Nam tìm kiếm những người lính mất tích trong chiến tranh.
Sự trợ giúp bao gồm đào tạo, trao đổi thông tin, cung cấp trang thiết bị và chuyển giao công nghệ.
Tuy nhiên trong một bản thông báo mới đây của thượng nghị sĩ Jim Webb, Chủ Tịch Tiểu ban Đông Á và Thái Binh Dương, thì lại nói rằng khoản tiền 1 triệu đô la này sẽ không được chi cho đến khi nào Việt Nam đảm bảo sẽ tìm kiếm những người lính của cả hai phía một cách công bằng. Ông cho biết Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã thông báo cho phía Việt Nam quyết định này.
Hiện vẫn chưa có phản ứng chính thức nào từ quan chức của chính phủ hai nước về tuyên bố này.
Hà Nội cho biết có khoảng 300,000 người lính thuộc quân đội Bắc Việt Nam bị mất tích trong cuộc chiến kết thúc vào năm 1975. Hiện vẫn chưa có con số thống kê về số người lính mất tích trong chiến tranh thuộc phía quân đội miền Nam Việt Nam.

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013


TNS Jim Webb yêu cầu ngưng viện trợ Việt Nam tìm kiếm hài cốt liệt sĩ

Thượng nghị sĩ Dân Chủ Jim Webb, Chủ tịch Tiểu ban Đông Á Thái Bình Dương, Ủy ban Ngoại giao Thượng viện Hoa Kỳ yêu cầu cơ quan USAID ngưng tài trợ cho chương trình tìm kiếm thi hài chiến binh Việt Nam mất tích.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/jweb-quest-back-of-mia-proj-dh-09232011154649.html

Và sẽ ngưng cho đến khi biết chắc là ngân khoản một triệu đô la được sử dụng trong việc đi tìm tử sĩ của cả hai miền Nam Bắc, cộng sản và quốc gia. Đỗ Hiếu trình bày thêm chi tiết.

Đòi hỏi sự công bằng

Quốc hội Hoa Kỳ quyết định tài trợ một triệu đô la cho công tác tìm kiếm quân nhân Việt Nam mất tích trong cuộc chiến. Phúc trình của Thượng viện Mỹ ghi là số tiền này được sử dụng để tìm hài cốt của tử sĩ cả hai phía cộng sản Bắc Việt và Việt Nam Cộng Hòa.
 
Theo thông cáo báo chí phổ biến ngày 22 tháng 9, 2011, Thượng nghị sĩ  Jim Webb của bang Virginia nói rằng, dự án này phải bảo đảm sự công bằng đối với tất cả chiến binh mất tích thuộc quân đội Bắc Việt, Việt Cộng và Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên qua thông tin mà văn phòng ông nhận được thì trong các cuộc thảo luận giữa cơ quan USAID với đại diện của Việt Nam, các binh lính của Việt Nam Cộng Hòa tử trận, mất tích không được tính trong chương trình đó.

Các quan chức Việt Nam cho biết họ muốn nhận dạng trên 650 ngàn bộ đội Bắc Việt và quân Giải phóng Miền Nam, được chôn cất tại các nghĩa trang do nhà nước dựng lên hoặc còn mất tích.

Theo ông Jim Webb thì Hà Nội cũng cần phải tìm kiếm thi hài của những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa mà không ai biết rõ con số tổng cộng là bao nhiêu.

Dịp này, Thượng nghị sĩ Jim Webb cũng cho biết là trong chuyến công tác Việt Nam tháng trước ông trông thấy cảnh nghĩa trang quân đội Biên Hòa là nơi an nghỉ của các quân nhân miền Nam tử trận trước 1975, bị bỏ hoang tàn và cần được sửa sang lại.



Nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi an nghỉ của các chiến sĩ VNCH rêu phong không ai chăm sóc. Photo courtesy of phanchautrinhdanang.com

Tòa đại sứ Việt Nam tại Washington, Hoa Kỳ không bình luận gì về thông tin này theo yêu cầu của nhật báo The Virginian-Pilot.

Lên tiếng với RFA về tuyên bố của Thượng nghị sĩ Jim Webb, Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc nói lên suy nghĩ của ông:

“Vì lý do nhân đạo, chính phủ ta cũng đã từng tìm kiếm thi hài cho lính Mỹ, là đối tác đã đánh chúng ta, vậy thì cũng trên tinh thần nhân đạo ấy, tôi nghĩ rằng dù là với quân đội Cộng Hòa, Miền Nam, trước đây là đối tượng của Miền Bắc, nhưng với tinh thần nhân đạo, hòa hợp dân tộc ấy, tôi nghĩ tiền được chi cho việc tìm hài cốt của cả binh sĩ hai Miền, tôi đồng ý với Thượng nghị sĩ  Jim Webb.”

Kế đó, từ Đồng Nai, Mục sư Thân văn Trường, cựu sĩ quan Quân đội Nhân Dân Việt Nam, 13 năm tác chiến, đơn vị cuối cùng, Đoàn 573, Quân Khu I,  góp ý:

“Tôi phát biểu trong tư cách một cựu chiến binh của Quân đội Nhân Dân Việt Nam. Tôi rất vui khi thấy Thượng nghị sĩ Jim Webb có nhã ý như vậy, nếu không nhầm thì ông cũng đã tới thăm nghĩa trang quân đội Biên Hòa, cách nhà tôi khoảng 3 cây số theo đường chim bay. Đây là một thiện chí của người Mỹ đối với vấn đề lịch sử, vấn đề chiến tranh, quá khứ mấy chục năm rồi.

Đây là một thiện chí của người Mỹ đối với vấn đề lịch sử, vấn đề chiến tranh, quá khứ mấy chục năm rồi. Đối với chiến binh bất cứ bên nào thì về hậu quả cũng phải xem xét công bằng, nghiêm túc...

Mục sư Thân văn Trường

Đối với chiến binh bất cứ bên nào thì về hậu quả cũng phải xem xét công bằng, nghiêm túc, cho nên tôi hoan nghênh tinh thần của Thượng nghị sĩ Jim Webb, đã quan tâm đến vấn đề đó. Tin Chúa nên tôi thấy việc đó rất đáng được hoan nghênh, Việt Nam bây giờ sẵn sàng làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới, làm bạn với Hoa Kỳ cho nên đây là một điều đáng khích lệ.”

Vừa rồi là phát biểu của hai cựu quân nhân Miền Bắc Việt Nam, trình bày cảm tưởng của mình về yêu cầu của Thượng nghị sĩ Jim Webb.

Hợp lý, hợp tình

Là một quân nhân Miền Nam, Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, cựu Tư Lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh/Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng bày tỏ nguyện vọng của ông:

“Vừa qua tôi cũng được tin về đề nghị của Thượng nghị sĩ Jim Webb, cảm giác đầu tiên của tôi thấy đây là ý kiến rất thành thực, chính đáng, hợp lý và hợp tình. Đã trên 36 năm rồi việc đối xử của nhà cầm quyền cộng sản thắng trận, với các cựu chiến sĩ, cựu công chức, của Việt Nam Cộng Hòa thật tàn nhẫn, thiếu nhân tính, thiếu tình người, tình đồng bào, thiếu đạo đức, rời bỏ nếp đạo đức Á Đông, trọng về tâm linh.



Các ngôi mộ của bộ đội Việt Nam thiệt mạng trong chiến tranh được chôn tại nghĩa trang quân sự lớn nhất nước thuộc tỉnh Quảng Trị. Ảnh chụp hôm 31/7/2004. AFP

Sau cuộc chiến, trên nguyên tắc chiến sĩ cả hai bên, nhất là các tử sĩ phải được kính trọng, từ lâu rồi tôi thấy hình ảnh nghĩa trang Biên Hòa trên báo chí, tôi rất đau xót, 16 ngàn tử sĩ tại đây, phải được đối xử công bình, chứng tỏ tin thần trọng nghĩa khí, chính nghĩa, trọng lẽ phải, đưa lên cái hình ảnh tốt đẹp của Việt Nam. Tôi rất tán thành đề nghị của Thượng nghị sĩ  Jim Webb, điều đó phải được chấp nhận.”

Thầy Thích Minh Dương, cựu Tuyên Úy Phật Giáo Vùng 4 Sông Ngòi, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, nay định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO, mong ước rằng :

“Xin cám ơn sự nhân đạo của chánh phủ và nhân dân Mỹ đối với Việt Nam, tôi thấy cuộc chiến vừa qua không riêng gì bất cứ một ai, không nói đến chuyện chính trị, nhưng thấy rằng những người đã nằm xuống ở hai Miền, chúng ta cần làm những gì cho họ, với lương tâm và sự công bằng, vì họ đã đem sinh mạng của mình ra cho quê hương Việt Nam.

Sau cuộc chiến, trên nguyên tắc chiến sĩ cả hai bên, nhất là các tử sĩ phải được kính trọng, từ lâu rồi tôi thấy hình ảnh nghĩa trang Biên Hòa trên báo chí, tôi rất đau xót.

Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh

Dù với ý thức hệ nào, sự hy sinh đó là một mất mát cho bản thân người đó, của gia đình và của đất nước. Theo tin thần đạo Phật, làm như vậy mới hóa giải được hận thù, sự buồn phiền, hằn học của cả hai phía, chúng tôi mong mỏi chính quyền nên quan tâm, tu bổ, giữ gìn nghĩa trang quân đội chúng tôi ngày xưa được yên ổn, đừng làm xói mòn, dù ở thế hệ nào. Chúng ta cũng là người dựng xây đất nước, bảo vệ quê hương đến giọt máu cuối cùng của những người con dân Việt.”

Khi được hỏi về lời yêu cầu của Thượng nghị sĩ  Jim Webb, phát ngôn nhân của USAID giải thích rằng, cơ quan này sẽ tìm kiếm và nhận dạng hài cốt của  chiến binh cả hai miền Nam, Bắc, trong cuộc chiến Việt Nam, giúp hàn gắn vết thương của hàng triệu gia đình người Việt, lâu nay vẫn không biết rõ số phận người thân mình biệt tăm tích, bây giờ ra sao?

 

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013


Tôi gọi họ là Anh Hùng

Viết bởi Đặng Chí Hùng (Danlambao) .

Dù bài viết này đã viết từ tháng 3 năm 2012, nhưng nó vẫn hay, 

Có thể nghe bài viết này qua Youtube + hình ảnh tại:


Trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc (theo cách gọi của tác giả Huy Đức) đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” như tôi từng chứng minh trong 2 bài “Những sự thật cần phải biết – phần 1” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng…

Cứ mỗi độ xuân về, những ngày tháng 3 cho đến cuối tháng 4, đã gần 40 năm qua chúng ta thường được nghe những luận điệu lặp lại của những người cộng sản chuyên nghề ngậm máu phun người và làm thí ít mà báo cáo láo thì nhiều về cái gọi là “Chiến thắng lẫy lừng” thì tôi lại phải xuống bút.

Có lẽ tôi không cần phải nói lại về bản thân tôi vì tôi chẳng có cái gốc “Ngụy” để mà đi “chống phá” cách mạng. Nhưng tôi thấy cần phải luận anh hùng với đôi dòng để bạn đọc thấy trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng…

Tại sao tôi nói như vậy? Vì trong cuộc chiến phi nghĩa mà cộng sản gây ra khiến nhân dân điêu linh (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ – phần 13”) thì kẻ thắng đã được đặt vào thế “được thắng”, còn người “thua” thì thực tế họ không thua mà họ đang thắng trong lòng chúng tôi, những người dù sinh sau đẻ muộn.

Một chế độ nào cũng có những khuyết điểm, Việt Nam Cộng Hòa không là ngoại lệ, nhưng ở chế độ đó con người đúng nghĩa là con người, ở đó con người không phải con vật, con thú cho nhà cầm quyền muốn làm gì thì làm như chế độ tôi đang phải sống. Điều này tôi đã chứng minh ở “Những sự thật cần phải biết – phần 2”. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng tôi không có ý ca ngợi VNCH một cách vô lý. Trong con mắt của tôi, đó là một chế độ đáng sống hơn vạn lần so với cộng sản ngày nay. Và nếu được cho lựa chọn thì tôi sẽ quay ngược thời gian về làm người lính VNCH – vì với tôi họ là “Anh Hùng”!

Đã cuối tháng 3 gãy súng (theo lời tác giả Cao Xuân Huy) của gần 40 năm sau cuộc chiến mà ở đó những người anh hùng đã gục xuống vì chính nghĩa. Họ đã gãy súng nhưng họ thực sự là anh hùng. Hãy bình tĩnh nhìn lại họ để xem những gì tôi gọi họ – những người lính VNCH là anh hùng có gì sai không?

Thứ nhất, trong khuôn khổ bài 1,2 “Những sự thật cần phải biết” tôi đã chứng minh rằng: VNCH không phải là “ngụy” và những người lính VNCH phải gục ngã vì họ bị ép phải thua và không còn khả năng để chiến đấu. Họ không thể dùng tay không đánh nhau với đoàn quân đông đảo có vũ khí, đạn dược áp đảo đang tiến theo thế cờ chính trị. Như vậy họ không phải là những người bại trận. Trên thực tế họ bị ép phải “thua”.

Thứ hai, với khẩu hiệu “tổ quốc – danh dự – trách nhiệm” thì quân lực VNCH đã chiến đấu cho tự do miền nam hơn 20 năm trời. Họ không phải là những kẻ đi gây chiến, xâm lược nước khác, khủng bố như cộng sản (Xin xem thêm “những sự thật cần phải biết – phần 3,4”). Vậy cớ sao họ vì an ninh, vì quốc gia mà chiến đấu không thể gọi họ là anh hùng?

Thứ ba, nhìn lại cuộc chiến VNCH và VNDCCH thì ai cũng thấy gương của những ông tướng dám tuẫn tiết theo thành như trường hợp của tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng… Vậy ai còn có thể nói quân lực có những người anh hùng đó không anh hùng? Dám chết cho lý tưởng của mình, dám chết vì thấy rằng mình dù bị ép thua nhưng cũng có trách nhiệm trong nỗi đau đó có thể gọi là anh hùng không? Có! Rất xứng đáng gọi họ là những anh hùng.

Thứ tư, khi so sánh với quân đội nhân dân VN hiện nay tôi càng thấy sự khác biệt của những người anh anh hùng và những kẻ “tự phong anh hùng”. Nếu quân lực VNCH có Ngụy Văn Thà và đồng đội sẵn sàng hi sinh vì biển đảo tổ quốc thì quân đội nhân dân cộng sản không dám “ho” một tiếng với Trung cộng bắn ngư dân và con “tri ân” giặc như một đứa con nít đang xu nịnh đám giang hồ mất nết. Vậy ai là anh hùng các bạn cũng đã biết rồi chứ?

Thứ năm, sau khi cuộc chiến kết thúc, hàng triệu người lính VNCH còn kẹt lại ở VN chịu thương tật, không ai giúp đỡ, không có lương hưu nhưng họ vẫn sống thẳng thắn và điềm đạm. Trong khi đó quân đội cộng sản tự cho mình là anh hùng thì lại vì cái sổ hưu mà đang cố bám lấy cái đảng khủng bố, độc tài và chịu làm thân nô lệ cho Tàu. Vậy ai là anh hùng? Xin giành sự suy ngẫm này cho chính các vị tướng già quân đội cộng sản.

Còn rất nhiều bằng chứng nhưng tôi xin chỉ nêu 5 điều chính cho thấy những người mà tôi gọi là anh hùng – những người lính VNCH là hoàn toàn có cơ sở. Cuộc chiến mà họ phải thua dù họ có chính nghĩa không có ý nghĩa. Điều ý nghĩa đọng lại cho mãi sau này đó là họ đã từng là những người anh hùng, họ xứng đáng được tôn vinh và quan trọng hơn họ đang thắng trong cuộc chiến trong lòng con dân Việt Nam!

Xin ngả mũ tri ân những người lính VNCH – Những người anh hùng – Những người đã đặt nền móng cho ý chí không chịu khuất phục cộng sản khát máu!