Thứ Năm, 9 tháng 9, 2010

Tổng Quát Về Việc Khai Thác Bauxite ở Việt Nam (Mai Thanh Truyết)

Tổng Quát Về Việc Khai Thác Bauxite ở Việt Nam

(Phát biểu tại Hội Thảo VAST 22-11-2009 tại Westminster Civic Center)

<!--[if !vml]-->Tóm lược: Kể từ đầu năm 2009, câu chuyện Bauxite bắt đầu nở rộ từ trong nước và ra hải ngoại. Dự án khai thác quặng bauxite do chính Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng ký sắc lịnh số 167 ngày 1/11/2007 và đã bắt đầu khởi công từ đầu năm 2008 ở công trường Bảo Lâm (Bảo Lộc) và giữa năm 2008 ở công trường Nhân Cơ, Đắknông, nhưng chỉ chính thức công bố vào đầu năm 2009 mà thôi. Mặc dù có biết bao góp ý từ những nhà chuyên môn trong nước và hải ngoại, cùng kinh nghiệm của những quốc gia đang khai thác như Liên bang Nga, Nam Mỹ, Phi Châu, Trung Cộng và Úc Châu. Từ đó đến nay, người Việt tại hải ngoại góp ý nhiều bài viết trên báo chí, trên mạng lưới toàn cầu cũng như trên đủ loại truyền thông khác như paltalk, truyền hình, truyền thanh của những nhà chuyên môn, ký giả và những người còn lưu tâm đến Đất và Nước Việt Nam về vấn đề trên.
Hiện nay, tại Tân Rai và Nhân Cơ, có hai hình ảnh nổi bật nhứt là hai dãy nhà cao từng sừng sửng trên bầu trời, cao nhứt ở hai vùng nầy. Đó là hai tòa nhà “Bạch cung” Chinalco, một ở Nhân Cơ, tổng hành dinh của địa điểm khai thác và 5 địa điểm khai thác khác, chiếm diện tích 1.800 Km2, 1/3 diện tích của tỉnh ĐắkNông. Dãy nhà thứ hai ở Tân Rai, thuộc xả Lộc Thắng, Lâm Đồng chiếm diện tích khai thác là 2.297 Km2.

Kết luận của người viết là Trung Cộng, qua sự đồng thuận của đảng CS Việt Nam, đã sử dụng hai vùng khai thác bauxite nầy chỉ là Diện và Điểm là một âm mưu cua TC nhắm tới là chính thức và hợp thức hóa sự hiện diện của công nhân, chuyên viên, và thậm chí những người quân nhân tình báo chiến lược để chiếm đóng và khai thác tất cả lợi điểm của vùng Cao nguyên Trung phần Việt Nam từ kinh tế, chính trị, quân sự, và khoáng sản ở nơi nầy.

Thưa Quý vị,

Câu chuyện Bauxite đã được chúng tôi khơi nguồn gần một năm nay, và quan điểm dứt khoát của chúng tôi là hình thái khai thác trên chỉ là một cuộc xâm lăng không tiếng súng của TC.
Bài phát biểu hôm nay đóng góp vào phần Hội luận của Hôi Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (VAST) giới hạn trong phạm vi ảnh hưởng của môi trường trong việc khai thác bauxite nầy.
Có thể nói, tất cả góp ý về việc khai thác quặng mõ bauxite ở vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam là một việc làm hoàn toàn không ứng hợp với việc bảo vệ môi trường cùng hiệu quả kinh tế của việc khai thác, cũng như ảnh hưởng đến đời sống người dân, đặc biệt là những người thiểu số. Tất cả đểu khuyến cáo là không hiệu quả kinh tế và mức độ ô nhiễm môi trường rất cao. Chính Trung Cộng bị buộc phải đóng cửa trên 100 nhà máy khai thác bauxite trong đó có một nhà máy vừa mới khánh thành tiêu tốn trên 1 tỷ Nhân dân tệ vì không giải quyết được áp lực của người dân và sức ép của luật môi trường.
Khai thác quặng mõ bauxite nhìn về khía cạnh kỹ thuật và môi trường
Quặng bauxite là một loại quặng lộ thiên, nghĩa là quặng mõ nằm dưới lớp đất thịt (đất đỏ bazan ở vùng Cao nguyên) dày khoảng từ 8 tấc đến 2 mét tùy theo vùng đất, nghĩa là chúng ta có thể khai thác thẳng quặng từ mặt đất chứ không cần phải đào đường hầm như khai thác mỏ than hay các quặng kim loại khác. Quy trình khai thác gồm có hai giai đoạn:
Đào xới, xử lý cơ học và hoá học để tách rời oxid nhôm (Al2O3);

Tinh chế nhôm ròng bằng phương pháp điện phân.
Giai đoạn đầu là đào xới các quặng mỏ. Dĩ nhiên trong quặng mỏ đó có trộn đất đá và một số kim loại độc hại lẫn trong quặng bauxite, do đó cần phải tách rời ra bằng các phương pháp cơ học và hoá học, nghĩa là tẩy rửa bằng nước và bằng sút để ra quặng alumina. Alumina là một hợp chất oxid của nhôm (Al2O3). Còn lại chất phế thải là bùn đỏ trộn lẫn với sút và nước chúng ta gọi là một chất bẩn độc hại âm thầm gồm các hoá chất độc hại như sau: các oxid sắt, nhôm ngậm nước, silic, natri, calci, titan, chrome, kẽm, và một số hoá chất hữu cơ. Giai đoạn nầy chỉ đòi hỏi những nhu cầu dụng cụ đào xới, máy nghiền, máy rữa ….và nhân công cũng không đòi hỏi có trình độ cao.
Giai đoạn thứ hai thực sự ra quan trọng hơn, vì cần phải sử dụng điện phân để tách oxid nhôm ra nhôm ròng. Đây là giai đoạn quan trọng nhứt vì nó đòi hỏi công nghệ cao cũng như cơ sở sản xuất trích ly điện phân rất cao.
Về diện tích đất khai thác: Ngay từ đầu, với diện tích dự trù khai thác lớn lao như tại Đắk Nông gồm 6 địa điểm chiếm trên 1.900 Km2, gần 1/3 diện tích của toàn tỉnh, nhưng vẫn được nhà cầm quyền giải thích là chỉ khai thác trên diện tích đất “hoang”, không có trồng cây công nghiệp như trà, cà phê, cao su v.v…Đó là: Nhân Cơ (chiếm 510 Km2), Trung Đức (354 Km2), Đắk Song (300 Km2), Bắc Gia Nghĩa (329 km2), 1 Tháng 5 (197 Km2), và Quảng Sơn (159 Km2). Nhưng trên thực tế, công tác di dời nhà (đuổi nhà) đã xảy ra từ hơn năm rồi.
Hiện tại, những vụ kiện tụng vẫn còn đang tiếp diễn. Làm sao bà con có thể chấp nhận được khi tiền bồi thường hoàn toàn dưới giá trị của nhà và đất trồng. Một thí dụ điển hình là, một gia đình có nhà và đất chung quanh, cộng thêm một diện tích đang chờ thu hoạch có giá trị cây đang trồng là 60 triệu Đồng VN. Tất cả, được bồi thường 30 triệu, không đủ chi phí để mua miếng đất cất nhà ở khu được di dời!
Một điều hết sức lố bịch là ngay cả kỳ họp quốc hội đang diễn ra tại Việt Nam, ngày 26 tháng 5 năm 2009, tại Hà Nội, một số đại biểu vẫn “khăng khăng” phát biểu cùng một luận điệu với Bộ Chính trị là việc khai thác bauxite chỉ xảy ra trên những vùng đất không hoang, không trồng cây công nghiệp!
Đối với vấn đề “hoàn thổ” sau khi khai thác, theo biện giải của Phó Thủ tướng CS Hoàng Trung Hải và mới đây nhứt được Thứ trưởng Bộ Khoáng sản lập lại là làm tới đâu lấp đất (hoàn thổ) tới đó và cho biết là tiến trình nầy rất thành công ở TC. Xin thưa, lớp đất mặt một khi đã được đào sới lên, dù được bảo quản kỷ lưỡng thì cũng phải trôi mất dưới sức chảy của những cơn mưa cao nguyên như thác đổ, nhứt là từ khi nạn phá rừng xảy ra hơn 30 năm nay. Và phải lấy đất ở đâu để lấp những vùng đã khai thác với từ 5 đến 20 thước sâu?
Nếu đúng như vậy, tại sao TC phải vội vã đóng cửa hàng trăm khu khai thác bauxite ở nước họ, mà phải khăn gói sang một nơi xa xôi để bắt đấu làm lại rất tốn kém. Và tại sao không khai thác các khu mỏ bauxite ở gần biên giới Bắc – Trung mà phải vào tận Cao nguyên Trung phần Việt Nam? Có phải vì một ẩn ý chính trị gì không?
Ô nhiễm không khí, bụi đỏ, mưa acid và bức xạ: Trong khi khai thác quặng nguyên sinh, bụi đỏ là nguyên nhân đầu tiên, ành hưởng đến không khí trong vùng, không những ở vùng khai thác mà bụi còn bay xa đến một chu vi rộng lớn của khu dân cư và khu trồng cây công nghiệp của dân chúng.
Ảnh hưởng về lâu về dài đến sức khoẻ của con người là các loại bịnh về đường hô hấp vì đây là những hạt bụi ly ti có đường kính dưới 10 micron. Khi nhiễm dài hạn có thể đưa đến ung thư. Còn đối với cây trồng, là sẽ bị phủ lớp bụi nầy, từ đó cây sẽ bị hạn chế tăng trưởng và mức thu hoạch cũng sẽ bị giảm theo.
Thêm nữa, tiến trình khai thác sẽ nảy sinh ra khí sulfur dioxid (SO2), và khí nầy sẽ tạo ra mưa acid, ảnh hưởng cũng không nhỏ đến cây trồng và người dân sống chung quanh. Tất cả vấn đề trên không được nêu ra ngoài những mỹ từ đẹp đẻ kết quả của việc khai thác bauxite là làm tăng thêm phúc lợi cho người dân sống trong vùng, tạo dựng đường xá, trường học, y tế, và nhứt là nâng cao đời sồng kinh tế cho người địa phương (?).

Về bức xạ, dự án đã khẳng định là các công ty nước ngoài đã phân tích mẫu quặng ở Tân Rai và Nhân Cơ và kết quả là hoàn toàn không có phóng xạ. Xin thưa, trong đất tự nhiên (kể cả không khí và nguồn nước) luôn luôn có chứa các bức xạ như các tia alpha, beta, radium và có nồng độ giao động trong khoảng 20 PicoCurie/Kg (hay L) tuỳ theo vùng. Và với tính cách thông tin, nước rỉ kỹ nghệ như công trường khai thác quặng mỏ hay các bãi rác công nghiệp có hàm lượng bức xạ cao hơn nhiều, điển hình như tại bãi rác ở Los Angeles, bức xạ trung bình được tìm thấy trong hơn 25 năm là 40 PicoCurie/L.

Hãy nghe một người dân sống gần lò luyện nhôm của Chinalco (Công ty đang thực hiện việc khai thác ở Nhân Cơ) ở Tây Tạng, được trích dẫn trên một bài đăng ở Mạng Lưới Hàng Động Fluoride (Fluoride Action Network) nói rằng: “Khói bao phủ sườn đồi. Nếu chúng tôi để cừu hay lừa ra gặm cỏ, răng của chúng trở nên vàng khè và giòn, rồi rụng hết. Gia súc của chúng tôi chết đói, và chúng tôi mất kế sinh nhai của mình”
Ô nhiễm nguồn nước: Khi đào sới thì lớp đất thịt ở trên mặt sẽ không còn nữa và bùn đỏ có trộn lẫn hóa chất như sút và một số kim loại độc hại kể trên sẽ chiếm một diện tích rất lớn trong việc khai thác.
Theo kinh nghiệm của những vùng khai thác bauxite trên thế giới, muốn khai thác một hecta quặng bauxite thì sẽ phát sinh ra một hecta bùn đỏ trong điều kiện quặng có hàm lượng oxid nhôm cao. Nhưng điều nầy không xảy ra cho trường hợp bauxite Việt Nam, vì chỉ số Silica (silica modulus – mSi) của quặng ở Việt Nam rất thấp (trái lại với những lời tuyên truyền của Việt Nam là có quặng tốt nhứt thế giới). Trên thực tế, chỉ số Silica của quặng việt Nam là từ 3,5 đến 7,8
kém xa quặng ở Indonesia là 14 đến 18, ở Úc Châu, 11 đến 21, và Ấn Độ từ 20 đến 25.
Do đó, muốn tách rời alumina ra khỏi quặng phải cần xử lý nhiều lần bằng xút để tinh chế oxid nhôm tức alumina. Ở giai đoạn một, theo dự án, cho biết sẽ tinh chế alumina đến 39%; và sau khi xử lý lần thứ hai bằng xút, có thể đạt được nồng độ alumina là 98%. Chính vì thế phương pháp xử lý quặng bauxite ở Nhân Cơ gọi là phương pháp Bayer “ướt”, và lượng bùn đỏ phế thải chắc chắn sẽ nhiều hơn so với việc khai thác ở các quốc gia khác.
Qua thời gian, qua mưa bão, bùn đỏ có thể xâm nhập vào nguồn nước ngầm và làm cho nguồn nước nầy bị ô nhiễm. Nên nhớ, nước ngầm là nguồn nước sinh hoạt của toàn thể cư dân vùng cao nguyên. Thứ nữa, bùn đỏ, đặc biệt là tại vùng Đắk Nông và Nhân Cơ, qua thời gian và mưa có thể di chuyển theo các rạch nước để đi vào song Serépôk và di chuyển xuống thượng nguồn sông Đồng Nai. Và như chúng ta đã biết, sông Đồng Nai là nguồn nước cung cấp cho toàn vùng Miền Đông Nam Việt và đặc biệt là thành phồ Sài Gòn.
Đó là những nguy cơ rất quan trọng, tức là nguy cơ về không khí và nguy cơ về nguồn nước cung cấp cho 30 triệu cư dân bao gồm nước sinh hoạt và nước ngầm ảnh hưởng đến trên.
Ảnh hưởng lên con người và sinh vật: Qua sự hiện diện của nhôm trong nước hay trong tôm cá trong vùng khai thác sống trong nguồn nước đã bị ô nhiễm, con người có nguy cơ ảnh hưởng lên sức khoẻ qua việc ăn uống hay sử dụng nguồn nước trên. Việc nầy đã được giới y khoa chứng minh là việc tiếp nhiễm có thể đưa đến: mô não bị huỷ hoại (encelopathy), bị loãng xương, thiếu máu, và có thể bị chứng Parkinson. Còn đối với đời sống tôm cá trong vùng bị ô nhiễm, chúng sẽ bị tiêu diệt lần lần và có thể bị tiệt chủng.
Theo một số nghiên cứu của các nhà khoa học Ý và Hoa Kỳ, bùn đỏ khi chảy ra biển có thể gây ra dị thai của tôm cá biển. Một nhà khoa học người Úc cũng đã khám phá là bụi đỏ cũng có thể gây ra ung thư phổi và làm biến dạng tử cung qua việc thử nghiệm lên chuột.
Nói chung, triệu chứng thông thường ảnh hưởng lên đời sống của người dân sống chung quanh vùng khai thác quặng mõ là cảm thầy khó chịu, bị chóng mặt, buồn nôn. Nếu bị tiếp nhiễm lâu dài có thể bị ngất xỉu bất cứ lúc nào và có thể đi đến hôn mê.
Còn đối với sodium hydroxide (còn gọi là xút) NaOH, hoá chất nầy được OSHA Hoa Kỳ ghi nhận là có nguy cơ gây ra ung thư cho người khi bị tiếp nhiễm dài hạn trên 15 năm. Nếu bị tiếp nhiễm trực tiếp, có thể bị ngứa da, lở loét miệng, cổ và thực quản. Hay hơn nữa, ảnh hưởng cấp tính có thể làm viêm mũi và cuống họng v.v…
Còn đối với tôm cá, căn cứ vào một số ghiên cứu ở Hoa Kỳ và Ý, bùn đỏ khi xâm nhập vào đại dương có thể gây ra những chứng xáo trộn di truyền lên cá tôm và con người cũng có thể bị nhiễm qua dây chuyền thực phẩm trên.
Xây dựng đập thuỷ điện: Kể tứ tháng 6/2008, TC tập trung vào việc khai thác bauxite tại Nhân Cơ trên một diện tích 140 hecta, dùng làm nơi lấp đặt nhà máy và cơ xưởng. Đồng thời, TC cũng đang lấp đặt nhà máy thuỷ điện Đắt Tít với công suất 144 MW và lấy nước từ 4 hồ lớn chạy dọc theo sông Serépok để cung cấp nước cho nhà máy thuỷ điện. Và cũng thử hỏi, biết đến bao giờ mới hoàn tất nhà máy thuỷ điện để có điện dùng cho việc khai thác nhôm. 5 năm, hay 10 năm sau?
Cùng với dự án khai thác bauxite, còn hai dự án phụ góp phần vào là dự án xây dựng tuyến đường sắt nối liền Tây Nguyên và Bình Thuận dài 270 Km và dự án xây dựng bến cảng Bình Thuận để chuyển tải oxid nhôm (giai đoạn đầu trước khi tinh luyện ra nhôm kim loại) bằng đường hoả xa và đường biển. Thời gian đòi hỏi cho việc xây dựng hai công trình nấy ít ra cũng phải hàng chục năm với đầy đủ ngân sách và chi tiết kỹ thuật xây dựng. Hai điều nầy thiết nghĩ chỉ có trên dự án khai thác và không biết bao giớ mới được khai triển!
Năng lượng và nước cho dự án: Nhu cầu điện năng và nước là hai nhu cầu lớn nhứt trong việc khai thác quặng mõ. Theo ước tính, muốn có 1,2 triệu tấn nhôm cần phải tiêu tốn 18 tỷ KWGiờ, và với giá điện là 3 xu Hoakỳ/KWGiờ mới cân bằng được giá thành và giá bán ra, nghĩa là huề vốn (1 tấn nhôm trên thị trường thế giới hiện nay vào khoảng $3.000). Việt Nam với tổng lượng điện sản xuất trên toàn quốc trong năm 2008 là 58,4 tỷ KWGiờ, thử hỏi làm sao Việt Nam có khả năng cung cấp với giá thành như trên để sản xuất ra nhôm. Trong hiện tại, thị xả Đà Lạt, một trung tâm du lịch có tầm vóc quốc gia, nhưng người dân còn phải sử dụng điện tính theo ngày chẳn, ngày lẽ và nước cũng chỉ được phân phối nhỏ giọt, lấy đâu cho cho việc khai thác bauxite đây?
Cũng theo tính toán của dự án Nhân Cơ, muốn khai thác 600.000 tấn/năm số lượng nước thải hồi là 4 triệu m3 . Đây là một lượng nước rất lớn, không dễ một sớm một chiều có thể có được ở vùng luôn luôn thiếu nứớc cho cây trồng nầy.
Việc hợp tác khai thác: Trung Cộng, Nhật, Hoa Kỳ, Úc: Để trấn an dư luận phản đối sự hiện diện ồ ạt của công nhân và chuyên viên TC, nhiều cấp quyền lực của Việt Nam đã viện dẫn là có sự hợp tác quốc tế gồm nhiền nước trên thế giới tham gia trong việc khai thác nầy, và họ kê khai công ty Alcoa, Hoa Kỳ đã có 40% cổ phần khai thác** (Xem Foot note).
Xin thưa, phát ngôn viên của Alcoa là Lowry đã công bố tại London vào ngày 28/4/2009 rằng công ty hoàn toàn không dự phần vào việc khai thác Nhân Cơ và Tân Rai, và hiện đang nghiên cứu thăm dò địa chất và có thể ký kết để khai thác khu Gia Nghĩa (Đắk Nông) dự trù vào năm 2012.

Từ đó, chúng ta thấy những bào chữa hay giải thích của “chính quyền” các cấp đều là những hình thức chữa cháy để trấn an dư luận hay đánh lừa dư luận mà thôi.
Người “công nhân” TC không phải đã định cư ờ Nhân Cơ hay Tân Rai, mà họ đã có mặt ở khắp miền đất nước từ Bắc chí Nam. Như tại Công ty Nhiệt điện Quảng Ninh đã có trên 4.000 công nhân và chuyên viên cư ngụ ở một khu vực hoàn toàn biệt lập có cổng rào riêng và được canh gát cẩn mật do bảo vệ cũng là người Hoa. Tương tợ như ở Công ty cổ phần nhiệt điện Hải Phòng với trên 2000 công nhân, Công ty than Nông Sơn đã có trên 100 và dự trù vào tháng 6 tới đây sẽ tăng cường thêm 500 nữa. Thậm chí Công ty Điện Đạm Cà Mau cũng đã có trên 1.000.
Việt Nam đang đứng trước nạn khủng hoảng kinh tế và nạn thất nghiệp trầm trọng; theo con số chính thức đã có trên 1 triệu công nhân thất nghiệp đặc biệt là hai khu chế xuất Đồng Nai và Sông Bé… Thế mà cũng đã có hàng ngàn công nhân nhập lậu (không có giấy phép lao động) làm việc trong các hảng xưởng do người Tàu làm chủ theo tin tức của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Chính Thứ trưởng Bộ Lao động và Thương binh mới vừa công bố là không có công nhân “không có giấy phép làm việc” và các công ty đều theo đúung thủ tục của Luật Lao động. Xin thưa, Luật Lao động có ghi rõ là mọi công nhân hay chuyên viên nước ngoài đều phải xin giấy phép và công ty thuê mướn phải chứng minh là loại công việc trên là cần thiết và được Bộ Lao động cung cấp giấy phép lao động. Xin hỏi các công nhân làm việc trên hai công trường Tân Rai và Nhân Cơ như cất nhà, làm đường xá, làm mặt bằng, hay đào các hố rãnh v.v… Đây có phải là những việc người công nhân Việt Nam không có khà năng làm không?
Để kết luận cho dự án khai thác bauxite, chúng ta có thể xác quyết là, dự án khai thác bauxite đòi hỏi một lượng điện năng khổng lồ và nguồn nước thật dồi dào, nước cũng bị ô nhiễm do bùn “đỏ” trôi theo đường nước đi vào sông Đồng Nai, nguồn nước chính dự trù cho việc khai thác nầy. Nguy hiểm nhất là bụi đỏ và bùn đỏ sẽ che phủ một diện tích vô cùng to lớn và hệ sinh thái chung quanh hoàn toàn bị hủy diệt, cùng vùng đất khai thác và vùng đất chứa bùn đỏ bị hoang hoá hoàn toàn. Do đó, có thể nói, tính khả thi của dự án không cao, nếu không nói là bất khả thi.
Như vậy, quyết định trên có phải là một quyết định đánh trống bõ dùi hay không? Hay là còn có một “ý đồ” nào khác hơn là việc khai thác nhôm? Sự hiện diện của công nhân, chuyên viên, kỹ sư Trung Quốc ở vùng Cao nguyên, xương sống của Việt Nam, nguồn nguyên liệu dồi dào còn lại của Đất Nước, có thể là một nhân tố chính trị - quânsự - kinh tế để Trung Quốc có thêm điều kiện để khống chế Việt Nam?
<!--[if !vml]-->Nhu cầu nhôm của Việt Nam hàng năm vào khoảng 100 đến 150 ngàn tấn dễ dàng được nhập cảng từ Úc châu. Thử hỏi với lượng sản xuất hàng triệu tấn dùng để xuất cảng sang TC, do đó, Việt Nam càng thêm lệ thuộc vào quốc gia nầy, và dễ dàng bị khuynh đão cũng như áp lực của TC<!--[endif]-->
Thêm nữa, trong ngày Hội thảo khoa học về việc khai thác quặng mõ Bauxite ngày 9 tháng tư vừa qua tại Hà Nội do Phó Thủ tước CS Hoàng Trung Hải chủ toạ có đầy đủ ban ngành và các bộ liên quan đến việc nầy và có rất nhiều Tiến sĩ chuyên ngành tham dự và đã được Bộ chính trị, qua Nguyễn Tấn Dũng xác nhận một lần nữa vào đầu tháng 5, 2009. Nhưng kết luận vẫn là:
Tiếp tục khai triển dự án Tân Rai (Lộc Thắng, Bảo Lâm, Lâm Đồng);

Đối với dự án Nhân Cơ, cần phải đợi báo cáo tác động môi trường (Environment Assessment Impacts- EAI) (điều khoản đã ghi rõ ràng trong Bộ luật Môi trường ở Việt Nam trước khi cung cấp giấy phép cho dự án). Như vậy Bộ Chính trị đã đứng trên luật lệ để “ra lịnh” khai thác hai dự án Bauxite nầy và dự trù còn 5 địa điểm khác ở Đắk Nông đã nói ở phần trên.
Kết luận trên của Hội thảo chỉ là một sự dàn dựng thêm một lần nữa, để chúng ta thấy rõ bản chất của chế độ là bất chấp chấp dư luận và góp ý của những nhà chuyên môn trên thế giới.
Và chúng ta, qua những nhận định đã nêu ở phần trên. có thể hình dung được rằng việc khai thác quặng mỏ bauxite ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam đã được Bộ chính trị Việt Nam giao khoán cho Trung Cộng cùng với những đặc quyền đặc lợi cho ngoại bang.

Việc làm nầy chắc chắn sẽ được khắc ghi vào những trang sử đen tối nhứt của Việt Nam thời hiện đại.

Mai Thanh Truyết

Ghi Chú: 1- Với tính cách thông tin, sau đây là những thông số kỹ thuật của nhà máy sản xuất nhôm của Alcoa tại Rockdale, Texas, Hoa Kỳ.
Năng lượng: Phải đốt 16.329 tấn than/ngày. Một năm đốt hết 1,4 triệu tấn than để chạy nhà máy có công suất 500MW.
Nhu cầu nước: 8,3 triệu m3/năm
Ô nhiễm môi trường: Tạo ra 3,7 triệu tấn Carbon dioxide (CO2), 500 tấn hạt bụi lơ lững, 10.000 tấn sulfur dioxide (SO2), 220 tấn hợp chất hữu cơ, 720 tấn carbon monoxide (CO), 125.000 tấn tro (ash), 193.000 tấn bùn (khô), 77 Kg thuỷ ngân, 102 kg arsenic, 51,7 Kg chì và 1,8 kg cadmium. Các khí kểv trên đã được hạn chế phát thải vài không khí qua những màng lọc của công ty. Còn tất cả phế thải rắn và lỏng đã được xử lý theo quy định của EPA Hoa Kỳ.
Chất thải của lò luyện kim (lò luyện phải nóng đến 900oC và dưới một điện cực 150.000 Ampere): Cứ mỗi 1000 tấn nhôm ròng được sản xuất, phát thải ra 20 tấn phế thải độc hại do lớp cathode bị hao mòn.
Phế thải gồm các hợp chất chứa ffuorr và cyanide. Đây là hai hoá chất, theo cơ quan WHO ảnh hưởng lên hệ sinh thái là huỷ diệt hoàn toàn thực động vầt trong vùng. Còn con người hấp thụ qua đường tiêu hoá hay hô hấp sẽ làm cho xương bị biến dạng (dị hình dị dạng) và hệ thần kinh bị hư hại. Các hiễm họa nầy sẽ không xảy ra cho Việt Nam, vì Việt Nam mặc dù trong dự án nói đến chỉ tiêu sản xuất là 1,2 triệu tấn nhôm ròng, nhưng trên thực tế chỉ dừng ở giai đoạn đầu là khai thác alumina (oxid nhôm) và chuyển tải về đàn anh nước lớn là TC để tiếp tục luyện nhôm.
--------------------------------------------------------
**
Note: Viec Hoa Ky co phan khai thac 40% nen xem lai. Ghi chu cua Hoang Hoa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét